Từ điều 248 đến điều 254 (C261-C267)
248 太阳病三日,发汗不解,蒸蒸发热者,属胃也,调胃承气汤主之。C261
249伤寒吐后,腹胀满者,与调胃承气汤。C262
250 太阳病,若吐、若下、若发汗,微烦,小便数,大便因硬者,与小承气汤和之愈。C263
251 得病二三日,脉弱,无太阳柴胡证,烦躁,
心下硬,至四五日,虽能食,以小承气汤少少与,微和之,令小安,至六日,与承气汤一升。若不大便六七日,小便少者,虽不能食,但初头硬,后必溏,未定成硬,攻之必溏,须小便利,屎定硬,乃可攻之,宜大承气汤。C264
248 Thái dương bệnh tam nhật, phát hãn bất giải, chưng chưng phát nhiệt giả, thuộc vị dã, Điều vị thừa khí thang chủ chi. C261
249 Thương hàn thổ hậu, phúc trướng mãn giả, dữ Điều vị thừa khí thang. C262
250 Thái dương bệnh, nhược thổ, nhược hạ, nhược phát hãn, vi phiền, tiểu tiện sác, đại tiện nhân ngạnh giả, dữ Tiểu thừa khí thang hoà chi dũ. C263
251 Đắc bệnh nhị tam nhật, mạch nhược, vô Thái dương sài hồ chứng, phiền táo, tâm hạ ngạnh, chí tứ ngũ nhật, tuy năng thực, dĩ Tiểu thừa khí thang thiểu thiểu dữ, vi hoà chi, linh tiểu an, chí lục nhật, dữ Thừa khí thang nhất thăng. Nhược bất đại tiện lục thất nhật, tiểu tiện thiểu giả, tuy bất năng thực, đãn sơ đầu ngạnh, hậu tất đường, vị định thành ngạnh, công chi tất đường, tu tiểu tiện lợi, thỉ định ngạnh, nãi khả công chi, nghi Đại thừa khí thang. C264
Từ điều C261 đến điều C264 thảo luận về nội dung chủ yếu của biện chứng và sử dụng thang Điều vị thừa khí và thang Tiểu thừa khí.
Nói về thang Tiểu thừa khí, trong phần trước chúng ta tổng cộng đã thảo luận về 3 điều. Điều thứ nhất là Dương minh bệnh xuất hãn, bụng lớn đầy không thông, nên dùng thang Tiểu thừa khí. Vì sao không dùng thang Đại thừa khí? Trường hợp này không có chứng trạng triều nhiệt, phải có chứng trạng triều nhiệt thì mới được dùng thang Đại thừa khí. Điều thứ hai là “Khủng hữu táo thỉ” (恐有燥屎) sợ có phân khô, sau 7,8 hay 8,9 ngày không đại tiện, sợ rằng bệnh nhân có phân khô, lại nghi ngờ rằng đó không phải sự thực, vì thế cho bn uống thang Tiểu thừa khí, sau khi uống, bệnh nhân phát trung khí là biểu hiện bn có phân khô. Điều thứ ba là bn nói nhảm và triều nhiệt, nên dùng thang Đại thừa khí, nhưng mạch không trầm khẩn mà lại hoạt tật, đây là mạch chứng không phù hợp, vì thế chỉ nên uống thang Tiểu thừa khí, không được uống thang Đại thừa khí. Đối với thang Điều vị thừa khí, ở phần trước chúng ta đã đề cập đến 2 mục, một là nói nhảm, vị khí bất hoà thì dùng thang Điều vị thừa khí, hai là không thổ không hạ, tâm phiền thì có thể dùng thang Điều vị thừa khí. Vì thế, điều văn này cho thấy thang Điều vị thừa khí và Tiểu thừa khí đều không đủ toàn diện. Từ điều C261 đến C264, chủ yếu là giới thiệu biện chứng và phạm vi trị liệu của thang Điều vị thừa khí và thang Tiểu thừa khí.
Điều C261 và C262 đều giới thiệu về thang Điều vị thừa khí. “Thái dương bệnh tam nhật” (太阳病三日) Thái dương bệnh 3 ngày, đây là quá trình của bệnh, bệnh bắt đầu là từ kinh Thái dương, thời gian là ba ngày. “Phát hãn bất giải” (发汗不解), phát hãn không giải không phải chỉ về biểu của Thái dương không giải, mà là chỉ về bệnh không được giải trừ. Tuy việc trị liệu đã trải qua phát hãn, nhưng bệnh vẫn không được giải trừ. Tại sao bệnh không được giải trừ? “Chưng chưng phát nhiệt giả, thuộc vị dã” (蒸蒸发热者,属胃也) phát nhiệt hầm hầm, bệnh thuộc vị. Dương minh bệnh, phát nhiệt hầm hầm, được chỉ ra cụ thể trong đoạn văn này, giống như một cái lò hấp, từ bên trong hướng ra ngoài, hầm hầm nhưng lại nóng lên, loại nhiệt này là nóng từ bên trong bốc ra ngoài. Bên trong thuộc vị, thuộc Dương minh, và đã không còn thuộc Thái dương.Thuộc về kinh Dương minh, điều C261 nói rằng đây là đoạn văn nói về loại hình nhiệt, là chưng chưng phát nhiệt, còn nói về gì nữa? Liên kết lại còn có “Thương hàn tam nhật, Dương minh mạch đại” (伤寒三日,阳明脉大) Thương hàn 3 ngày, dương minh mạch đại. Nếu chính là “Thương hàn tam nhật” truyền vào kinh Dương minh, sẽ thấy mạch gì?Thấy mạch hồng đại, mà không phải là mạch phù. “Thương hàn tam nhật, Dương minh mạch đại”, đó chính là mạch hồng. Bệnh nhân nếu xuất hiện Dương minh bệnh, ở dương minh sẽ thấy mạch hồng đại, và đây là mục thứ nhất. Còn một điều văn, “Thương hàn phát nhiệt vô hãn, ẩu bất năng thực, nhi phiền, hãn xuất trấp trấp nhiên giả, thử chuyển thuộc Dương minh dã.” (伤寒发热无汗,呕不能食,而烦,汗出濈濈然者,此转属阳明也) Thương hàn phát nhiệt không xuất mồ hôi, ẩu thổ không thể ăn, bực bội, xuất mồ hôi liên tục là bệnh đã chuyển vào kinh Dương minh. Bất luận là Thái dương cũng được, Thiếu dương cũng được, chỉ cần bệnh chuyển về Dương minh , sẽ phải “Hãn xuất trấp trấp nhiên” (汗出濈濈然)là xuất mồ hôi liên tục. Đó là biểu hiện bệnh đã chuyển về kinh Dương minh. Một là nói về mạch, hai là nói về xuất mồ hôi liên tục. Đây là nói về xuất mồ hôi, phát nhiệt hầm hầm, chúng ta nói về nó khi đổ mồ hôi liên tục nhưng hoà hoãn, tại sao lại xuất mồ hôi liên tục? Bệnh nhân xuất mồ hôi vì phát nhiệt chưng chưng (bốc nóng từ bên trong)?
Vì sao Dương minh bệnh trấp trấp xuất hãn? Trước tiên là vì nóng, chưng chưng phát nhiệt (nóng từ trong bốc ra) nên xuất hãn liên tục. Vì đây là cách dùng các câu văn hỗ tương nhau để làm rõ ý (hỗ văn kiến ý). Cách trình bày ở đây “Chưng chưng phát nhiệt” là bao gồm “Trấp trấp hãn xuất”. Người bệnh này phát sốt, chính là toàn thân chưng chưng phát nhiệt mà toàn thân không có chút mồ hôi, có thể như vậy không? Không thể, chưng chưng phát nhiệt tất nhiên sẽ trấp trấp xuất hãn, hai ý này hỗ tương nhau. Chưng chưng phát nhiệt, lại trấp trấp hãn xuất (Bốc nóng từ bên trong, xuất hãn liên tục nhưng hoà hoãn), và không ghét lạnh, người này đã không trải qua pp xuất hãn nào. Đây là bệnh gì? Thái dương bệnh có biểu hiện phát nhiệt ghét lạnh, Thiếu dương bệnh có biểu hiện hàn nhiệt vãng lai, ở đây người bệnh phát nhiệt chưng chưng, trấp trấp hãn xuất mà không sợ lạnh, là bệnh thuộc về vị rồi. Đã không thuộc về Thái dương lại không thuộc về Thiếu dương thì thuộc về Dương minh vị. Không nên chỉ chú trọng đến những văn tự này, cần phải liên kết chúng lại, thì sẽ nhìn nhận được vấn đề một cách toàn diện. Vì bệnh thuộc vị (dạ dày) nên chưng chưng phát nhiệt, xuất mồ hôi liên tục (trấp trấp hãn xuất nhưng hoà hoãn), chỉ có thể là do trong vị bị táo nhiệt (khô nóng), đó là nguyên nhân xuất hiện bệnh này.
Các cơ quan tạng phủ khác như bàng quang, túi mật bị bệnh thì không có hiện tượng nhiệt và mồ hôi nêu trên. Có thể dựa vào hai phương diện để giải thích vấn đề này, một là chưng chưng phát nhiệt (nóng hầm hầm), trấp trấp hãn xuất (Xuất mồ hôi liên tục nhưng hoà hoãn) chính là thuộc vị, là thuộc Dương minh bệnh. Điểm thứ hai, chỉ khi dạ dày có bệnh, dạ dày bị nóng thì mới có hiện tượng phát nhiệt chưng chưng, trấp trấp xuất hãn, ngoài ra thì đều không có hiện tượng này. Khi túi mật bị nóng có biểu hiện như vậy không? Bàng quang bị nóng có biểu hiện như vậy không? Cả tạng tâm bị nóng cũng không biểu hiện như vậy, tất cả đều không, đây chỉ là biểu hiện riêng của Dương minh vị, thuộc về lý chứng ở kinh Dương minh. Làm sao để trị bệnh này? “Điều vị thừa khí thang chủ chi”, dùng thang Điều vị thừa khí để trị bệnh này.
Điều C262: “Thương hàn thổ hậu, phúc trướng mãn giả, dữ Điều vị thừa khí thang.” (第C262 条:‚伤寒吐后,腹胀满者,与调胃承气汤。)
“Thương hàn”, bệnh ngoại cảm gọi là thương hàn. Trình tự trị liệu là dùng phép thổ, sau khi thổ, xuất hiện bụng bệnh nhân trướng đầy, đây chính là một phúc chứng (chứng ở bụng) của Dương minh bệnh. Tại sao sau khi thổ bụng lại trướng đầy? Thổ có ý là phát hãn. Vì khi thổ là khí hướng lên trên, hướng ra ngoài, như vậy khi ẩu thổ thì toàn thân xuất hãn, nên cũng có một chút tác dụng giải biểu. Vì thế sau khi ẩu thổ cũng có khả năng giải biểu. Nhưng ẩu thổ sẽ gây tổn thương vị dịch và vị khí. Trước đây đã nói về sau khi ẩu thổ xuất hiện tâm phiền, mạch sác, đó là khách nhiệt không thể tiêu hoá ngũ cốc, toàn bộ chính là vấn đề này.
Điều này là giải biểu sau khi ẩu thổ mà tổn thương vị dịch, khi vị dịch bị tổn thương thì vị dễ bị khô táo, sau khi ẩu thổ tuy có tác dụng phát hãn giải tà, nhưng phát hãn không được triệt để như phép phát hãn.
Vì thế, một số y gia cho rằng, sau khi ẩu thổ vị dịch bị tổn thương, hàm ý là Dương minh bị khô, dạ dày khô nóng, khí của vị tràng bất hoà, có thể xuất hiện bụng đầy trướng. Dạ dày khô và khí bất hoà, bụng trướng đầy nhưng không đau, không ấn đau, không đau chung quanh rốn. Không đau đớn, chỉ có chứng trạng bụng trướng đầy, đồng thời chỉ xuất hiện chứng trạng này sau khi ẩu thổ, vì thế chủ yếu do dạ dày khô nóng dẫn đến vị khí bất hoà, đồng thời trong ruột không có phân khô, hoặc là phân cứng. Vì thế không dùng thang Tiểu thừa khí, đương nhiên lại càng không thể dùng thang Đại thừa khí, vì thế nên sử dụng thang Điều vị thừa khí. Thang Điều vị từa khí có tác dụng hoà vị nhuận táo, cũng có thể thông lợi phủ khí, vì trong thang có Đại hoàng, Mang tiêu, Cam thảo . Vì vậy, theo quan điểm của điều C261 và điều C262, một là theo nhiệt hình, hai là theo quan điểm đổ mồ hôi, thuộc về dạ dày. Vì thế “Thái dương bệnh tam nhật” (Bệnh ở kinh Thái dương 3 ngày) Tà khí vừa vào đến vị, thuỷ cốc, cặn bã chưa ngưng tụ thành chất đặc, vì thế thời điểm này nên dùng thang Điều vị thừa khí, mà không thể dùng thang Tiểu thừa khí, càng không thể dùng thang Đại thừa khí. Vì thế có thuyết cho rằng thang Điều vị thừa khí chính là phương thang dùng điều trị khinh chứng (chứng bệnh nhẹ) của Dương minh bệnh vị gia thực.
“Thái dương bệnh, nhược thổ, nhược hạ, nhược phát hãn” (太阳病,若吐,若下,若发汗) Thái dương bệnh, nếu thổ, nếu hạ, nếu phát hãn. Vì sao lại để “Nhược phát hãn” ở cuối câu? “Nhược thổ, nhược hạ, nhược phát hãn” sau đó xuất hiện “vi phiền” (微烦), chẳng phải là Chi tử thị thang chứng đó sao? Phiền ở đây là có hoả có nhiệt. Ở phần giảng về Chi tử thị thang chứng có chứng trạng tâm phiền, là do nhiệt tà của kinh Thái dương không được giải trừ, uất vào tâm hung mà phát sinh tâm phiền.
Nếu người này nhị tiện (đại, tiểu tiện) bình thường, bụng không trướng đầy và đau, có thể dùng thang Chi tử thị để xử lý vấn đề này. Hiện tại nhị tiện đều không bình thường, “tiểu tiện sác, đại tiện nhân ngạnh giả” (小便数,大便因硬者) Tiểu tiện nhiều lần, là nguyên nhân tạo thành phân cứng. Tiểu tiện nhiều lần, sau khi dùng các phép hãn thổ hạ làm tổn thương tân dịch của dạ dày, dạ dày khô và nóng, tân dịch không thể ở trong dạ dày, vì thế tạo thành tình trạng bị thấm xuống, tiểu tiện lượng nhiều và tiểu tiện nhiều lần. Phần trước đã trải qua hoặc hãn hoặc thổ hoặc hạ, hiện tại tân dịch không còn ở trong ruột và dạ dày, thấm xuống gây chứng tiểu tiện nhiều, và vì thế phân bị cứng.
Phân bị cứng là do dạ dày hay do ruột? Chứng này không do dạ dày mà là do ruột. Đây là táo nhiệt xuống đến ruột. Dương minh bệnh khô nóng có ba loại thượng táo, trung táo và hạ táo (khô ở trên, ở giữa và ở dưới). Ở phần trên là ở dạ dày, dạ dày khô nóng nhiều chính là thuộc Điều vị thừa khí thang chứng. Hiện tại trong ruột có phân cứng thì dùng thang Điều vị thừa khí thì không hiệu quả. Tại sao? Vì phân trong ruột đã cứng, làm sao biết được phân đã cứng? Vì tiểu tiện nhiều lần, trong quá khứ đã trải qua các phép hoặc hãn, hoặc thổ hoặc hạ đã gây tổn thương tân dịch của cơ thể, khi tân dịch đã bị tổn thương, phân đương nhiên sẽ bị cứng. Phân cứng và tiểu tiện nhiều lần, hai yếu tố này là hỗ vi nhân quả (hỗ tương liên hệ, hỗ tương chuyển hoá của nguyên nhân và kết quả). Vì vậy, câu này tương tự như “tiểu tiện sác, đại tiện nhân ngạnh giả” (tiểu tiện nhiều lần là nguyên nhân của phân cứng) và ngược lại. Như vậy dùng thang Tiểu thừa khí để điều hoà. Việc dùng thang Tiểu thừa khí mà không dùng thang Đại thừa khí, cho thấy đây chỉ là phân cứng mà chưa đến mức độ phân bị khô. Vì chưa có các chứng trạng như triều nhiệt, đau bụng. Thời điểm này nên dùng thang Tiểu thừa khí để điều hoà tràng vị, bệnh sẽ có những biến chuyển tốt.
Điều C264 là một điều không dễ giải thích. Trong điều này Trương Trọng Cảnh dùng phép tả hạ một cách vô cùng thận trọng, điều trị lúc nào thì xem xét lúc đó, từng bước từng bước tiến hành điều tra nghiên cứu, tiến hành quan sát, đáp ứng các yeu cầu lâm sàng như hiện nay. Chúng ta hiện nay khám bệnh cũng như vậy, bất luận y bác sĩ nào khám bệnh, qua quan sát là chúng ta có thể nắm được (mức độ thận trọng), đây là vấn đề rất cá nhân. Có những vấn đề phức tạp thì phải xử lý từng bước một, uống thuốc này xong rồi sẽ xem xét thuốc tiếp theo, cần phải xử lý thuốc tiếp theo như thế nào?
Trương Trọng Cảnh dùng điều này để mô tả quá trình dùng phép tả hạ, và tiên sinh cũng rất cẩn thận. Cũng chính là muốn nói, biện chứng là một vấn đề cực kỳ nghiêm túc. Bị bệnh đã 2, 3 ngày, đây là bệnh gì? Thương hàn là gì, Thái dương bệnh là gì, bệnh ngoại cảm phát nhiệt. “Mạch nhược” (脉弱) chính là từ đối nghịch của “Bất khẩn” (不紧), có nhiều mệnh đề tương tự, thí dụ như “Mạch vi nhược giả, thử vô dương dã, bất khả phát hãn” (脉微弱者,此无阳也,不可发汗). Mạch nhỏ yếu là mạch không có dương, không thể dùng phép phát hãn. Với nguyên tắc như vậy Trương Trọng Cảnh có một quy luật, mạch trước đó là rất khẩn, có lực, hiện tại là mạch nhược, là mạch không khẩn, tình huống là như vậy. “Vô Thái dương, Sài hồ chứng” (无太阳、柴胡证), đã không có biểu chứng Thái dương, cũng không có bán biểu bán lý chứng của Tiểu sài hồ thang, mạch còn nhược, vì thế nên mạch không khẩn.
Không có Thái dương biểu chứng, cũng không có bán biểu bán lý chứng của Tiểu sài hồ thang, mạch còn nhược cũng không khẩn, cho thấy ngoại trừ Thái dương, Thiếu dương. Không có chứng trạng của Thái dương, của Sài hồ chứng , mạch nhược, tâm hạ cứng (ngạnh) đến 4, 5 ngày, đã không có Thái dương cũng không có Thiếu dương, vậy đây là bệnh gì? Là chứng “Phiền táo”, phiền táo là bên trong có nhiệt, tâm hạ là vị quản (khoang dạ dày), tâm hạ rất cứng, vị khí còn bất hoà, “chí tứ ngũ nhật” đến 4,5 ngày, 2,3 ngày là mở đầu, ở người này là 4,5 ngày, ở đây có một phục bút (đoạn văn dẫn trước cho đoạn văn sau), là có hàm ý, có chứng trạng không đại tiện. Người này đã trải qua 4,5 ngày bực bội, tâm hạ ngạnh (dạ dày cứng) đã 2,3 đến 4,5 ngày không đại tiện. Có người hỏi, làm sao để biết là không có phân trong ruột? Phần dưới có ghi: “Dĩ Tiểu thừa khí thang thiểu thiểu dữ, vi hoà chi,” (以小承气汤少少与,微和之) (uống thang tiểu khí và uống ít một, để điều hoà nhẹ nhàng), nếu có đi đại tiện thì có còn uống thang Tiểu thừa khí nữa không? Vì thế hàm ý là ở chỗ này chính là bệnh nhân không đại tiện, nếu bệnh nhân này có đại tiện thậm chí phân lỏng thì còn có thể uống thang Tiểu thừa khí không? Sự việc này là không thể.
Mấy ngày qua không đại tiện, trong lòng bực bội bứt rứt, tâm hạ ngạnh (cứng bụng vùng dạ dày), không có chứng trạng phát nhiệt của kinh Thái dương, không ghét lạnh, cũng không có chứng trạng của Thiếu dương như trướng đầy ngực sườn, mạch cũng không khẩn, nên làm gì? “Tuy năng thực, dĩ Tiểu thừa khí thang thiểu thiểu dữ, vi hòa chi” (虽能食,以小承气汤少少与,微和之)Tuy có thể ăn, nên uống thang Tiểu thừa khí từng chút một để điều hoà nhẹ nhàng, “tuy năng thực”, tuy người bệnh này còn ăn được, câu này có ý nghĩa như thế nào? Có ý nghĩa biện chứng, bệnh ở kinh Dương minh là không ăn được, người bệnh này nếu quả thực có phân khô, khối phân khô tích lại, khí của phủ không thông, vị khí không thể hạ xuống thì không thể ăn uống được. Hiện tại, tuy không đại tiện 4,5 ngày, bệnh tuy ở kinh Dương minh, nhưng lại có thể ăn uống, điều này cho thấy bệnh chưa đến mức độ phân khô, nên không thể dùng thang Đại thừa khí, “dữ Tiểu thừa khí thang thiểu thiểu dữ” (与小承气汤少少与) (dùng thang Tiểu thừa khí uống từng chút một), có ý là không cho bệnh nhân uống đầy đủ thang Tiểu thừa khí, “thiểu thiểu dữ” uống ít một, câu văn ở dưới viết, “vi hoà chi, linh tiểu an, chí lục nhật, dữ Thừa khí thang nhất thăng” (微和之,令小安,至六日,与承气汤一升) điều hoà nhẹ nhàng, trấn tĩnh bệnh nhân, đến sáu ngày, uống thang Thừa khí 1 thăng, như thế là hơi nhiều, chỉ nên uống ít hơn 1 thăng, khoảng 7,8 hợp.
Trước mặt là “Thiểu thiểu dữ chi”, uống một ít nước thuốc thang Tiểu thừa khí, khoảng 3,4 hợp.
Nếu như một lần uống 8 hợp Thừa khí thang, thì hiện tại chỉ uống ½ , uống khoảng 3,4 hợp là được., như vậy gọi là “Thiểu thiểu dữ chi”(uông ít một), “vi hoà chi” (điều hoà nhẹ nhàng).
Sau đó mọi người lại hỏi, vì sao Trương Trọng Cảnh lại cẩn thận như vậy? Thang Tiểu thừa khí không phải là thang Đại thừa khí, với lượng thuốc như vậy có đủ không? “Thiểu thiểu dữ, vi hoà chi, linh tiểu an” (少少与,微和之,令小安) (Uống ít một để điều hoà nhẹ nhàng, trấn tĩnh bệnh nhân) Vì sao phải suy nghĩ quá nhiều, sợ trước sợ sau? Vì có các bằng chứng này, một là bệnh ở Dương minh, hai là bực bội, một chứng là tâm hạ ngạnh (cứng dưới tim), chứng này không giống chứng bụng đầy cứng, vị kết (kết trong dạ dày), tuy còn ăn được, còn ăn được nhiều thứ, người này đã 4,5 ngày không đại tiện, đồng thời mạch còn nhược (yếu), nhược không phải là khẩn, vì thế căn cứ vào điều này, thấy có điểm giống chứng táo kết của Dương minh bệnh, nhưng mức độ táo kết rất nhỏ, sợ rằng tả hạ sẽ gây tổn hại cho tỳ vị, vì Trương tiên sinh chỉ dùng một lượng ít của thang Tiểu thừa khí, ý của tiên sinh là không phải trị bệnh triệt để, “linh tiểu an” (trấn tĩnh an ủi bệnh nhân), uống thang Tiểu thừa khí, vì bực bội, ngủ không ngon, ngồi không yên, tâm hạ còn cứng, sau khi uống thang Tiểu thừa khí, điều hoà nhẹ nhàng, như một chút an ủi cho bệnh nhân, sau khi uống thuốc thấy bớt bực bội, là cũng có hiệu quả trị liệu.
Nhưng thày thuốc còn phải quan sát, theo dõi khi bệnh còn trong quá trình điều trị, phải quan sát xem phân đã xuống hay chưa, đã bao nhiêu ngày chưa đại tiện. “Chí lục nhật”(至六日), đã 6 ngày chưa đại tiện, sẽ không dùng theo cách “Thiểu thiểu dữ chi” (uống ít một). Nhưng phải có các điều kiện như bệnh nhân không tiêu chảy, cũng không xuất hiện mạch vi sáp, cũng không xuất hiện hiện tượng hư hàn, lúc này Trương Trọng Cảnh dùng 1 thăng thang Thừa khí, bình thường dùng 7,8 hợp, lúc này không phải là 3,4 hợp mà là tăng liều lượng lên đến 1 thăng. Đây chính là cách giải quyết vấn đề của Dương minh bệnh, giải quyết vấn đề của phân cứng, vì thế tiên sinh rất thận trọng, quan sát cẩn thận trong khi điều trị bệnh.
Dưới đây là câu trong ngoặc “Nhược bất đại tiện lục thất nhật, tiêu tiện thiểu giả, tuy bất năng thực, đãn sơ đầu ngạnh, hậu tất đường, vị định thành ngạnh, công chi tất đường” (若不大便六七日,小便少者,虽不能食,但初头硬,后必溏,未定成硬,攻之必溏) (Nếu đã không đại tiện 6,7 ngày, tiểu tiện ít, tuy không thể ăn, nhưng phân lúc đầu cứng, phần sau phân nát, chưa thành phân cứng, nếu công hạ tất phân nát), Trương Trọng Cảnh nói rằng người này đã không đại tiện 6,7 ngày, có thể dùng phép tả hạ hay không? “Tuy bất năng thực”, một trường hợp là tuy có thể ăn, một trường hợp là tuy không thể ăn, so sánh hai trường hợp với nhau, không đại tiện 6,7 ngày, khi không thể ăn thì có phân khô không? Hiện tại đã không đại tiện 6,7 ngày rồi, tuy nhiên vì người này không ăn được nên cũng không thể dùng thang Đại thừa khí. Nếu như người này tiểu tiện ít, không phải là người tiểu tiện nhiều lần, mà chính là tiểu tiện ít (ít nước tiểu), là lúc này có vấn đề về tiểu tiện, phía trước có số lần đi tiểu nhiều, phân cứng, phân cứng thì có thể dùng thang Thừa khí, hiện tại là tiểu tiện ít, chú giải của Thành Vô Kỷ rất rõ ràng, “tiểu tiện thiểu giả, tắc vị trung thuỷ cốc bất biệt, tất sơ ngạnh hậu đường, tuy bất năng thực, vi vị thực, dĩ tiểu tiện thiểu tắc vị định thành ngạnh, diệc bất khả công” (小便少者,则胃中水谷不别,必初硬后溏,虽不能食,为胃实,以小便少则未定成硬,亦不可攻)(ít tiểu tiện, là thuỷ cốc trong dạ dày không tách biệt (trộn lẫn), nên phân sẽ lúc đầu thì cứng, phân sau lại lỏng, tuy không ăn được, là vị thực, ít tiểu tiện vẫn không tạo thành phân cứng, cũng không thể dùng phép công hạ), vì thế ít tiểu tiện là phản ảnh người này bên trong ruột không có phân cứng, tại sao vậy? Nếu như bên trong có phân khô, thì táo nhiệt sẽ bức bách tân dịch thấm xuống và số lần tiểu tiện tăng nhiều, hiện tại bệnh nhân ít tiểu tiện, táo nhiệt trong tràng vị không mạnh, chưa hình thành phân khô, như vậy không cần dùng thang Thừa khí để tả hạ, bệnh lý biến hoá là “Đãn sơ đầu ngạnh” (chỉ phần đầu là phân cứng). Vì sao 6,7 ngày không đại tiện? Vì phía trước là một khối phân cứng,phía sau là phân lỏng, “vị định thành ngạnh” (未定成硬), chưa đến mức độ nhất định để thành phân cứng. “Công hạ tất đường” nếu dùng thang Thừa khí, uống vào sẻ gây chứng tiết tả, không phải là đại tiện ra phân khô mà là đi tả, là điều trị sai lầm. Như thế nào thì có thể dùng thang Thừa khí để công hạ? Tất nhiên phải đợi đến khi bệnh nhân tiểu tiện thuận lợi, tiểu tiện thuận lợi là tiểu tiện nhiều lần và thuận lợi, táo nhiệt bức bách tân dịch thấm xuống, “Thỉ định ngạnh” (屎定硬) phân nhất định cứng, vì thế một là định, một là chưa định, ở đây có nhiều định lượng, nói đến “thỉ định ngạnh” (屎定硬) rồi (phân đã cứng rồi), “nãi khả công chi”(乃可攻之)(có thể dùng phép công hạ). có thể dùng thang Đại thừa khí, Tiểu thừa khí. Kết hợp với đoạn văn này, chúng ta còn có thể nhớ lại các đoạn văn trước đây, yếu tố nào gây ra phân cứng, một là tiểu tiện nhiều lần, còn có thất khí (trung tiện) hay không trung tiện. Chuyển thất khí (phát trung tiện) là đại tiện có phân khô, không chuyển thất khí là đại tiện chưa kết khô. Tiểu tiện nhiều lần, chuyển thất khí, triều nhiệt, đầy bụng và đau chung quanh rốn, chúng ta chắc chắn rằng thang Đại thừa khí chủ trị các chứng trạng nêu trên, và không cần do dự khi sử dụng. Nguyên văn là từng câu, từng câu một, từng chứng, từng chứng một, khi học tập nghiên cứu, để có thể hiểu rõ vấn đề chúng ta cần phải quan sát trên quan điểm toàn cục.
252 伤寒六七日,目中不了了,睛不和,无表里证,大便难,身微热者,此为实也。急下之,宜大承气汤。C265
253 阳明,发热,汗多者,急下之,宜大承气汤。C266
254 发汗不解,腹满痛者,急下之,宜大承气汤。C267
252 Thương hàn lục thất nhật, mục trung bất liễu liễu, tình bất hoà, vô biểu lý chứng, đại tiện nan, thân vi nhiệt giả, thử vi thực dã. Cấp hạ chi, nghi Đại thừa khí thang. C265
253 Dương minh, phát nhiệt, hãn đa giả, cấp hạ chi, nghi Đại thừa khí thang. C266
254 Phát hãn bất giải, phúc mãn thống giả, cấp hạ chi, nghi Đại thừa khí thang. C267
Từ điều C265 đến điều C267 là ba điều giảng về chứng tả hạ khẩn cấp của Dương minh bệnh. Tại sao gọi là hạ khẩn cấp?, vì trong ba điều trên đều có ba chữ “cấp hạ chi” (急下之), ba hội chứng này, nếu không hạ khẩn cấp thì không sử dụng thang Đại thừa khí để tả hạ, nếu bạn chần chừ, do dự không kịp thời tả hạ, sẽ gây tổn thương âm, vong âm, có thể dẫn đến những hậu quả không tốt. Vì thế việc nắm vững bệnh cơ, tích cực chủ động, cấp hạ (nhanh chóng công hạ) để giữ gìn chân âm. {Thương Hàn Luận} có hai đại pháp, một là cấp hạ để tồn âm (bảo tồn âm), hai là cấp ôn để tồn dương (bảo tồn dương). Trong tam dương chứng có phép cấp hạ để tồn âm, trong tâm âm chứng có phép cấp ôn để tồn dương.
Những nguyên tắc này, xem qua như chỉ có tác dụng trừ khứ bệnh tà, nhưng trên thực tế có tác dụng phù trì chính khí. Thang Đại thừa khí chẳng phải là tả hạ là trừ khứ bệnh tà đó sao? Thực tế là đồng thời với việc trừ khứ bệnh tà cũng còn có ý nghĩa phù trì chính khí, cho nên gọi là phép cấp hạ để bảo tồn chân âm, phép chính là phép tắc, là không thể vượt qua nguyên tắc.
Trọng điểm của điều C265 là nói về chứng táo thực (thực chứng khô háo) của trung tiêu ảnh hưởng xấu đến âm của can thận, nếu như không loại bỏ được chứng này ở trung tiêu thì sẽ tồn tại mối nguy vong cho âm của can thận ở hạ tiêu, âm của can thận ở hạ tiêu luôn bị kiềm chế, cướp đoạt, với chứng này và các chứng nói chung, được giới thiệu thang Đại thừa khí có những khác biệt nhất định, ở đây cần nhanh, cần quyết đoán, cần can đảm, đồng thời cần phải nhận ra được vấn đề. “Thương hàn lục thất nhật” (伤寒六七日) Thương hàn 7,8 ngày chính là nói về quá trình của bệnh, xuất hiện vấn đề gì? “Mục trung bất liễu liễu” (目中不了了) (mắt không thể nhìn được), chính là chứng trạng bệnh nhân tự cảm thấy, nhưng chứng trạng tự giác này có thông qua những tìm hiểu khách quan, bệnh nhân cho rằng anh ta nhìn mọi vật đều không rõ ràng. “Tình bất hoà” (睛不和) (Đồng tử không bình thường) là một triệu chứng khách quan trong nhận thức của anh ta, thày thuốc có thể thấy mắt bệnh nhân thâm quầng và đồng tử không hoạt động. Trong tình huống bình thường, con ngươi chuyển động lên xuống, hoạt động tự nhiên, nếu đồng tử không hoạt động, khi nhìn vật gì chỉ có thể nhìn thẳng về một hướng mà không thể chuyển động linh hoạt.
Đây là bệnh của mắt và đồng tử, tạng can khai khiếu ra mắt, {Nội kinh} viết: “Mục đắc huyết nhi năng thị” (目得血而能视) Mắt đầy đủ máu thì có thể nhìn, “tình bất hoà” (Đồng tử không linh hoạt) là âm huyết của tạng can không thể đưa lên mắt, âm của can đã bị hư tổn; Đồng tử có quan hệ với tạng can và tạng thận, thận thuỷ, thận âm không thể đưa lên nuôi mắt, vì thế bệnh nóng sốt cao dễ xuất hiện chứng trực thị (đứng tròng). “Tình bất hoà” (Đồng tử không linh hoạt) phản ảnh âm của can thận không đủ, bệnh này không thuộc nội bệnh, không thuộc tạp bệnh mà thuộc thương hàn, chính là kết quả của chứng ngoại cảm phát sốt. Ngoài điều này ra, còn có hội chứng nào khác không? Hỏi về đại tiện thì “đại tiện nan”(khó đại tiện) khó là muốn mà không được, phân không ra. Có bị sốt không? Sốt và không sốt cao?, “Thân hữu vi nhiệt” thân thể nóng nhẹ, là bn sốt nhưng không quá tệ. Đại tiện khó và thân thể nóng nhẹ, các hội chứng không quá nghiêm trọng, chứng này so sánh với chứng táo thực của thang Đại thừa khí trước đây chính là không có biểu, lý chứng. Và không phải là tuyệt đối không có biểu, lý chứng, chính là tương đối, chúng ta thấy các chứng trạng như đại tiện khó khăn, thân thể nóng nhẹ (vi nhiệt), đại tiện khó khăn là lý chứng, thân thể vi nhiệt tính là ngoại chứng (biểu chứng), nhưng đều là những chứng trạng rất nhẹ, cũng có thể cho là “vô biểu lý chứng”. Có những nhà chú thích cho rằng, không có biểu chứng là không có Thái dương chứng, không có lý chứng là không có Dương minh chứng, cách giải thích này với hai hội chứng đại tiện khó khăn và thân vi nhiệt xem ra không được chặt chẽ nên không thể sử dụng. Ý kiến của người viết là giải thích như sau: Đại tiện khó khăn là lý chứng. Vì Dương minh bệnh “Thái dương Dương minh giả,tỳ ước thị dã” (太阳阳明者,脾约是也)Thái dương Dương minh là chứng Tỳ ước, “Chính dương Dương minh giả, vị gia thực thị dã” (正阳阳明者,胃家实是也) (Chính Dương Dương minh, là chứng vị gia thực),“Thiếu dương Dương minh giả, phát hãn thổ hạ hậu đại tiện nan thị dã” (少阳阳明者,发汗吐下后大便难是也) (Thiếu dương Dương minh, sau khi phát hãn, thổ, hạ mà đại tiện khó khăn), đại tiện khó khăn là lý chứng của Dương minh bệnh. Thân thể sốt nhẹ cũng chính là trung ngoại chứng (chứng ở giữa và ở ngoài) hàng đầu của Dương minh, “Dương minh bệnh ngoại chứng vân hà? Đáp viết: Thân nhiệt” (阳明病外证云何?答曰:身热), (Ngoại chứng của Dương minh bệnh là thân nhiệt), chẳng qua ở đây là vi nhiệt, đại tiện khó khăn, vì thế mà có thể cho là một chút biểu chứng và lý chứng, nhưng không phải là biểu, lý chứng đặc trưng. Đây là một cách nói. Nếu như xuất hiện một loại chứng trạng như vậy mà mắt không mờ, chỉ có đại tiện khó khăn, thân thể sốt nhẹ, đây là chứng lý thực rất nhẹ của Dương minh bệnh, không cần dùng thang Đại thừa khí, có thể dùng thang Tiểu thừa khí hoặc Điều vị thừa khí. Vấn đề xuất hiện ở điểm “Mục trung bất liễu” (目中不了了) mà “Tình bất hoà” (睛不和) (mắt bị mờ, mắt không bình thường) là tình trạng âm của can thận ở hạ tiêu bị tiêu háo mà không thể nuôi dưỡng mắt, chứng trạng “Thân vi nhiệt” là nhiệt không thể phát ra ngoài, mà truyền phạt vào trong, ảnh hưởng mạnh mẽ xuống dưới, nhiệt ở trong không xuất ra ngoài, gây tổn thương trực tiếp cho âm của hạ tiêu. Theo Trương Trọng Cảnh, trước đây đã giảng nhiều về hội chứng của thang Đại thừa khí “Thủ túc trấp trấp giả”(手足濈濈者)mồ hôi tay chân, “nhiễu tề thống giả”(绕脐痛者) đau quanh rốn, “triều nhiệt giả” (sốt nhẹ vào giờ thân), “chiêm ngữ”(nói nhảm), lúc này mới dám dùng thang Đại thừa khí. Nếu xuất hiện các chứng trạng “Thân hữu vi nhiệt, đại tiện nan, mục trung bất liễu liễu, tình bất hoà” (身有微热,大便难,目中不了了,腈不和) thân thể nóng nhẹ, đại tiện khó khăn, mắt nhìn không rõ, mắt không bình thường, chúng ta có dám dùng thang Đại thừa khí không? Ai dám sử dụng? Người viết không dám, vậy hãy xem đó là bệnh gì? Việc gì đang xảy ra? Vì thế Trương Trọng Cảnh nhắc nhở chúng ta hãy xem xét cẩn thận để thấy rằng đây là những chứng trạng nghiêm trọng, là táo nhiệt ở trung tiêu ảnh hưởng xuống âm của can thận ở hạ tiêu, không nên cho rằng đây là bệnh không đáng kể, bệnh này nghiêm trọng và tệ hại hơn so với hội chứng của thang Đại thừa khí trước đó. Mức độ nghiêm trọng như thế nào? Đó là âm của can thận đã bị tổn thương, hai trong ngũ tạng đã bị tổn hại, một là tạng can, hai là tạng thận, âm ở hạ tiêu đã bị tổn thương, con người làm sao có thể hoạt động được khí không có âm? Vì thế “Cấp hạ chi” (nhanh chóng tả hạ), không nên do dự, chần chừ, không chờ đợi, nhanh chóng dùng phương pháp tả hạ Đại thừa khí, vì sao? Vì việc nhanh chóng sử dụng phương pháp tả hạ có thể giữ gìn bảo tồn âm của tạng can và thận. Bảo tồn tân dịch có hai phương diện, một phương diện là phát hãn, thổ, hạ có nhiều khả năng trừ khứ bệnh tà mà không có nhiều khả năng làm tổn hại chính khí. Phát hãn vừa đủ thì ngưng lại, không nên xuất hãn quá nhiều (đại hãn), xuất quá nhiều mồ hôi bn sẽ bị vong tân dịch (mất nước). Vì thế thang Ma hoàng, thang Quế chi, thang Đại thanh long đều có phép phát hãn như vậy, có ý nghĩa bảo tồn tân dịch. Trên phương diện khác, giống như thang Đại thừa khí nhanh chóng tả hạ để bảo tồn tân dịch. Táo nhiệt (khô nóng) quá mạnh liền gây tổn thương cho âm của can thận, muốn giữ gìn tân dịch thì nên nhanh chóng tả hạ, bài tiết phân khô nóng ra khỏi đại tràng, sau đó có thể bảo tồn âm ở hạ tiêu, cũng gọi là bảo tồn tân dịch. Thí dụ như khi ta đun nồi nước, phía dưới nồi là củi khô, nước bắt đầu cạn, nước cạn dần, càng đun thì nước càng cạn, phải làm gì? Có người nói, cho thêm chút nước, với một chút nước thì vẫn không giải quyết được vấn đề, điều trị triệu chứng không bằng điều trị tận gốc. Lửa không tắt, lửa còn cháy ở đáy nồi, phải làm sao? Có người cho vào một gáo nước khuấy đều cho nước không sôi, làm như vậy cũng không kết quả, cũng không làm được. Sau cùng, nếu không rút củi là không thể, nâng nước lên cũng không thể, muốn nước không sôi thì không gì bằng rút củi dưới đáy nồi, rút củi đáy nồi chính là dùng thang Đại thừa khí, tả hạ là như rút củi lửa ở đáy nồi, là không tiếp tục làm khô. Vì vậy, không thể thêm nước tăng chất lỏng để không sôi, cũng không thể nâng cao nồi nước để ngừng sôi. Đó là phương cách điều trị triệu chứng chứ không phải là điều trị căn nguyên, điều trị từ gốc là sử dụng phương pháp rút củi từ đáy nồi, là cấp hạ (nhanh chóng tả hạ) để cứu âm.
Điều C266 khá đơn giản. Dương minh là chỉ về chứng lý thực, lý thực là có ngoại chứng, ngoại chứng có phát sốt xuất hãn, “bất ố hàn phản ố nhiệt” (不恶寒反恶热) (không ghét lạnh trái lại lại ghét nóng). Phát nhiệt xuất hãn là lý chứng của Dương minh phản ảnh ra ngoài, có thể hạ, không rõ cần phải như thế nào để được nhanh chóng công hạ (cấp hạ), điều này tại sao lại cần cấp hạ? Là vì có nhiều mồ hôi. “Dương minh bệnh pháp đa hãn” (阳明病法多汗),mồ hôi là chứng của Dương minh, phát sốt cũng là chứng của Dương minh, nếu như quá nhiều mồ hôi quá thì âm sẽ bị tổn thhương, mồ hôi là âm dịch, mồ hôi xuất càng nhiều, thì táo nhiệt (khô nóng) bên trong càng mạnh, sẽ khiến cho thể dịch, âm dịch trên cơ thể càng bị mất đi, không có âm dịch thì không thể xuất hãn, đến một lúc nào đó, không còn âm phận thì con người còn sống được không? Kiến vi tri trứ (见微知著)từ điểm nhỏ thấy được việc lớn. Trương Trọng Cảnh nhìn từ hiện tại biết được vị lai, biết táo nhiệt uy hiếp chân âm, âm sẽ tàn nên cấp bách dùng phép tả hạ, khi táo nhiệt ở vị tràng được trừ khứ, tân dịch không bị ngấm ra ngoài, là bảo tồn được âm dịch, đã bảo tồn được âm dịch, người bệnh sẽ không phát sinh nguy hiểm.
Có người nói, dùng thang Bạch hổ có được không? Bạch hổ thang chứng cũng đổ mồ hôi, đoạn văn này cũng không nói đến chứng trạng bụng trướng đầy và đau, ở đây là Dương minh bệnh nhiều mồ hôi phát sốt, dùng thang Bạch hổ, dùng nhiều Thạch cao có được không? Không được, vì lại trở về phương pháp làm giảm sôi nước, chứng này không rút bớt củi lửa là không thể, vì đây là táo nhiệt thực chứng, không phải là nhiệt chứng của Dương minh. Bất kể là điều văn này có rất ít chứng trạng, nhưng ý nghĩa của chúng là rất lớn.
Điều C267 là “Phát hãn bất giải, phúc mãn thống giả, cấp hạ chi, nghi Đại thừa khí thang ” (发汗不解,腹满痛者,急下之,宜大承气汤。) phát hãn không giải, “phát hãn bất giải” (发汗不解), không phải là biểu không giải, mà chính là bệnh không biến chuyển tốt. Đó là loại bệnh gì? “Phúc mãn thống giả” (腹满痛者) Đầy bụng và đau, tức là bụng vừa trướng vừa đau, đây chính là chứng lý thực của Dương minh bệnh, chứng này có thể dùng thang Đại thừa khí để tả hạ, tại sao lại cần dùng, “cấp hạ chi, nghi Đại thừa khí thang” (急下之,宜大承气汤) nhanh chóng công hạ, nên dùng thang Đại thừa khí, điều này có sự biến động tiêu trưởng của tà khí, tà khí truyền biến nhanh chóng, cực kỳ nhanh, vì thế phải tả hạ khẩn cấp, để chấm dứt ưu thế của bệnh.
Mọi người xét câu ,“phát hãn bất giải”, phát hãn là phép điều trị biểu chứng của kinh Thái dương, sau khi phát hãn mà không có chuyển biến tốt, theo đó là bụng trướng đau, nhanh chóng xuất hiện giống như vị gia táo nhiệt thành thực chứng. Loại truyền biến nhanh chóng này không thể chần chừ chờ đợi, không như thương hàn 5,6 ngày trước đây, 7,8 ngày, nhiều ngày không đại tiện, sau đó bụng trướng đau, loại này là phát hãn không giải trừ bệnh mà bụng trướng đau, cho nên thế của chứng Dương minh táo nhiệt này có tình tràn lan, hung mãnh phi thường. Nếu không nắm lấy cơ hội, lập tức sử dụng hạ pháp để ngăn chặn thế mạnh của táo nhiệt. Sẽ tức thời đối mặt với nguy cơ diệt vong, không phải là vấn đề bụng trướng đau, sẽ xuất hiện “tuần y mạc sàng, dịch nhi bất an, vi suyễn trực thị” (循衣摸床,惕而不安,微喘直视) lần áo sờ giường, sợ hãi bất an, suyễn nhẹ trực thị là những chứng trạng hiểm ác của chứng âm bị tổn thương, nếu đến lúc này mới sử dụng phép tả hạ thì đã quá muộn.
Vì thế, với tình hình bệnh thế táo nhiệt mãnh liệt, không nên chần chừ, chờ đợi, Trương Trọng Cảnh cho rằng phải nhanh chóng tả hạ, tiêu diệt thế bệnh hung hãn. Đây cũng chính là tính dự báo, trừ khứ táo nhiệt để gìn giữ âm khí.
Ba điều này có toàn diện không? Chúng không đủ toàn diện. Chỉ là một thí dụ, vấn đề táo nhiệt gây tổn hại cơ thể, không chỉ là một số chứng trạng như mắt nhìn không rõ, mắt không bình thường, một là xuất hãn nhiều, hai là bụng trướng đầy. Chỉ có vài hội chứng ít ỏi vậy ư? Còn những vấn đề khác, phải có đủ tinh thần để nắm được sự phát triển của bệnh, sự quan hệ giữa chính và tà (bệnh và lực đề kháng bệnh), lúc này chúng ta phải vận dụng hết khả năng lý luận chỉ đạo để nhanh chóng tả hạ. Lý thuyết của Tôn Tư Mạo “Đảm dục đại nhi tâm dục tiểu, hành dục phương nhi chí dục viên” (胆欲大而心欲小;行欲方而志欲圆) Có nghĩa là đảm lượng cần lớn, tâm tư cần cẩn thận, mưu trí cần chu toàn, hành vi cần đoan chính. Thày thuốc cần có lòng dũng cảm, khi nào nên dùng thang Thừa khí thì dùng thang Thừa khí, khi cần dùng thang Tứ nghịch thì dùng thang Tứ nghịch, nên dùng Qua đế tán thì dùng Qua đế tán, nên dùng Để đương thang thì dám dùng Để đương thang. Như thế gọi là gì? Gọi là lòng dũng cảm, là sự quyết đoán. Lương y dùng thuốc trị bệnh, cùng bệnh đấu tranh, không dùng thang Thừa khí, thang Để đương thì làm sao trừ khử được bệnh, làm sao chống được chúng? Vì vậy những phương thang này, được sử dụng, dám sử dụng phải có lòng dũng cảm và sự quyết đoán mạnh mẽ.
Tuy nhiên, lòng muốn cẩn thận “Tâm dục tiểu” (心欲小) là gì? Là kỹ lưỡng, là nghiêm túc, là phải có nghiên cứu, phải có lý luận, không được bất cẩn đại khái (thô tâm đại ý) hời hợt đại khái, không quan tâm, lại dám dùng thuốc, đó chẳng phải là bất cẩn, là coi sinh mệnh như cỏ rác? Cho nên “Đảm dục đại nhi tâm dục tiểu” (胆欲大而心欲小) (Lòng can đảm cần phải lớn mà tâm thì cần cẩn thận chu toàn) chính là có quan hệ biện chứng.
Bệnh đã đến giai đoạn nguy hiểm này, không dùng thuốc là không thể, thuốc phải được sử dụng, không còn có thể dây dưa, bảo thủ, lưỡng lự, đợi thời cơ, cho dù thày thuốc còn có vấn đề về phẩm chất, như không dám nhận trách nhiệm, nhưng luôn luôn cấp thuốc, cũng có lúc trị bệnh không tốt, cũng có khi trị bệnh không tệ, nhưng trên thực tế cũng là không toàn tâm toàn ý với người bệnh. Những điều này đều là những thực tế đáng tiếc trong khám trị bệnh.
Trường Xuân