Điều 75 đến điều 93 (C76-C97)
75 未持脉时,病人手叉自冒心,师因教试令咳而不咳者,此必两耳聋无闻也。所以然者,以重发汗,虚故如此。C76
Điều 75
Vị trì mạch thời, bệnh nhân thoa thủ tự mạo tâm, sư nhân giáo thức linh khái nhi bất khái giả, thử lưỡng nhĩ lung vô văn dã. Sở dĩ nhiên giả, dĩ trùng phát hãn, hư cố như thử.
Dịch: Khi chưa thiết mạch, người bệnh đã dùng hai tay ôm lấy vùng tim, thày thuốc yêu cầu bệnh nhân ho nhưng bệnh nhân không phản ứng, cho thấy hai tai bệnh nhân không nghe thấy gì. Sở dĩ như vậy là do phát hãn trùng lắp, thuộc hư chứng.
Đoạn văn này phân tích phát hãn trùng lắp dẫn đến hội chứng tâm thận dương hư.
“病人手叉自冒心” (Bệnh nhân thoa thủ tự mạo tâm), bệnh nhân dùng hai tay bảo vệ vùng trước tim, phàm có bảo vệ là có đau khổ, cho thấy có chứng hồi hộp, trống ngực. Nhưng chứng hồi hộp có hư có thực khác nhau, thực chứng hồi hộp tất tự bảo vệ nhưng không thích ấn đè, hư chứng thì thích ấn giữ để giảm chậm chứng hồi hộp tim đập nhanh (trống ngực). Y sinh yêu cầu bệnh nhân ho, nếu bệnh nhân không có phản ứng, cho thấy bệnh nhân không nghe thấy gì. Vì hai tai bị điếc phát sinh sau khi phát hãn trùng lắp, nên thuộc hư chứng không còn nghi ngờ. Hãn xuất quá nhiều, tổn thương đến tâm dương, khiến tim hồi hộp mà “Thoa thủ tự mạo tâm”(Hai tay che chắn bảo vệ tim); Tổn thương thận khí, thận khai khiếu ở tai, nên “Tất lưỡng nhĩ lung vô văn dã” Hai tai điếc không nghe .
76 发汗后,饮水多,必喘,以水灌之,亦喘。
C77
Điều 76 Phát hãn hậu, ẩm thuỷ đa, tất suyễn, dĩ thuỷ quán chi, diệc suyễn.
Dịch: Sau khi phát hãn, uống nhiều nước, tất sẽ bị suyễn, dùng nước tắm rửa, cũng phát bệnh suyễn.
Đoạn văn của điều 77 phân tích việc uống lầm nước lạnh hoặc điều trị bằng nước gây ra chứng suyễn.
“Dĩ thuỷ quán chi” (以水灌之), “Quán” là tắm rửa. Đoạn văn này nói về tắm rửa có hai tầng ý nghĩa: Một là, nói về hoạt động thường ngày của con người, con người sau khi bị bệnh, nhất là sau khi phát hãn, có cảm giác toàn thân dính nhờn không thoải mái, sẽ dùng nước để tắm rửa. Thứ hai, thời nhà Hán có một phép trị liệu bằng nước, thuộc vật lý trị liệu. Sau này còn có câu nói “病在阳,应以汗解之”(Bệnh tại dương, nên dùng mồ hôi để giải), Bệnh tại dương chính là bệnh tại kinh Thái dương, nên dùng hãn pháp, “Phản dĩ lãnh thủy tuyển chi” (反以冷水選之)Ngược lại nếu dùng nước lạnh, lại dùng nước lạnh phun, rẩy lên người, giống như ngâm tắm, hạ thấp thân nhiệt, đó là thủy liệu pháp điển hình.
Sau khi phát hãn, chính khí còn hư tổn, nếu như lại tắm, sẽ dễ tổn thương phế,” 形寒饮冷则伤肺” , “以水灌之,亦喘”(Hình hàn ẩm lãnh tắc thương phế) Thân thể lạnh uống nước lạnh thì tổn thương phế. Dùng nước tắm cũng suyễn, chính là thân thể lạnh, khi thân thể lạnh, lỗ chân lông không thông nên phế khí bất lợi; Uống nhiều nước tất suyễn, chính là nói về uống nước lạnh, uống lạnh làm cho phế kinh không thông mà phế khí bất lợi, phế khí bất lợi sẽ phát sinh chứng suyễn. Vì thế, chúng ta có thể hiểu tại sao sau khi phát hãn uống nước cần phải “Thiểu thiểu nhi ẩm chi” (uống từng chút một), đây chính là có ý nghĩa dự phòng, kèm theo tri thức hộ lý nhất định.
76发汗后,水药不得入口为逆,若更发汗,必
吐下不止。C78
Điều 76
Phát hãn hậu, thủy dược bất đắc nhập khẩu vi nghịch, nhược canh phát hãn, tất thổ hạ bất chỉ.
Dịch : Sau khi phát hãn, bệnh nhân không thể uống thuốc, uống nước là do điều trị trái nghịch (sai), nếu phát hãn thêm, sẽ thổ hạ không ngừng.
Đoạn văn này phân tích nguyên nhân sau khi phát hãn do tổn thương vị dương dẫn đến không uống được nước, thuốc.
Sau khi phát hãn, khí của vị dương bị tổn thương, dẫn đến không thể uống nước và thuốc, là nước thuốc không thể xuống cổ họng, việc này trái ngược với trị liệu. “若更发汗”(Nhược canh phát hãn), nếu lại phát hãn lần nữa, sẽ thổ hạ không ngừng. Nếu phát hãn thêm thì Tỳ vị hư hàn sẽ nặng hơn, vị bị lạnh sẽ ẩu thổ, tỳ bị lạnh sẽ tiết tả.
76发汗吐下后,虚烦不得眠;若剧者,必反复
颠倒,心中懊憹,栀子豉汤主之。C79
Điều 76
Phát hãn thổ hạ hậu, hư phiền bất đắc miên; Nhược kịch giả, tất phản phục điên đảo, tâm trung áo não, Chi tử thị thang chủ chi.
Dịch: Sau khi sử dụng các phép hãn thổ hạ, bệnh nhân hư phiền không ngủ; Nếu bệnh nặng, tất sẽ phản phục đảo điên, trong lòng buồn bực, Chi tử thị thang trị bệnh này.
Phương thang Chi tử thị: Chi tử 14 quả
Hương thị 4 hợp, bọc trong lụa .
Hai vị trên, dùng 4 thăng nước, sắc vị Chi tử trước, sắc còn 2,5 thăng, cho vị Hương thị vào, sắc còn 1,5 thăng, bỏ bã, chia 2 lần uống, lần 1 uống lúc thuốc còn ấm. Nếu bệnh nhân thổ ra được, không uống tiếp lần 2.
76若少气者,栀子甘草豉汤主之。若呕者,栀
子生姜豉汤主之。C80
Điều 76
Nhược thiểu khí giả, Chi tử Cam thảo thang chủ chi. Nhược ẩu giả, Chi tử Sinh khương thị thang chủ chi.
Dịch: Nếu thở yếu và ngắn (thiểu khí), dùng thang Chi tử Cam thảo. Nếu ẩu thổ, thang Chi tử Sinh khương thị chủ trị bệnh này.
Phương thang Chi tử Cam thảo: Thang Chi tử thị gia Cam thảo 2 lạng, theo như phép ở trên, đến khi thổ được, ngừng uống.
Phương thang Chi tử Sinh khương: Phương Chi tử thị thang gia Sinh khương 5 lạng, theo phép trên, thổ được, ngừng uống.
Đoạn văn này phân tích hội chứng và trị liệu của hỏa chứng. Thủy chứng và hỏa chứng trước sau nối tiếp nhau, chính là viết với mục đích dựa vào tính nối tiếp và tính liên hệ của chúng.
Chúng ta thử quy nạp Thái dương bệnh từ điều 79 trở về trước. Một loại là Thái dương biểu chứng, không phải hội chứng thang Ma hoàng mà chính là hội chứng thang Quế chi, trị liệu chủ yếu là dùng phép phát hãn. Một loại là tà khí truyền lý, truyền đến Dương minh có thể hình thành hội chứng thang Bạch hổ, truyền đến Thiếu dương có thể hình thành hội chứng thangTiểu sài hồ, bản kinh truyền bản phủ có thể hình thành hội chứng Ngũ linh tán.
Hội chứng thang Chi tử thị không phải truyền kinh, mà chính là thông qua một đường lối truyền biến riêng, chính là tà khí từ biểu truyền đến ngực hoặc ức (thượng quản). “邪气传里必先胸”(Tà khí truyền lý tất tiên hung). Tà khí truyền vào lý tất nhiên đầu tiên là lồng ngực, khí Thái dương thụ khí trong lồng ngực. Liên quan với điểm này, chúng ta đã có dịp nói qua ở điều của hội chứng thang Quế chi khứ Thược dược.
Hư phiền là tên một chứng trạng, chính là do Thái dương biểu tà truyền biến mà có. Thái dương bệnh trải qua một thời gian điều trị, cũng không ngoài các trị pháp như hãn, thổ, hạ mà thôi, nếu như tà khí đã giải, thì bệnh cũng sẽ khỏi. Nếu như tà khí ở biểu không giải, trái lại từ biểu vào ngực (tâm hung) và hóa nhiệt sẽ hình thành hội chứng thang Chi tử thị. Tại sao gọi là “Hư phiền”? “Phiền” Có hai ý nghĩa: Một là nhấn mạnh chính là nhiệt tà gây bệnh “Phiền giả nhiệt dã” (烦者热也); Thứ hai, chứng trạng chủ yếu là phiền. “Hư” là đối tỉ (so sánh) với “Thực”. Tà khí phát phiền có phân thành Biểu Lý Hư Thực Hàn Nhiệt. Biểu nhiệt uất ở lồng ngực, nếu như lại ngưng tụ với vật hữu hình, thì gọi là thực chứng, thí dụ như hội chứng Đại kết hung; Nếu như không xen lẫn vật hữu hình, thì gọi là hư phiền.
Chữ “Hư” có ý nghĩa của chẩn đoán phân biệt. Cũng có nhà chú thích cho rằng, bệnh này phát sinh sau khi hãn thổ hạ, chính khí hư nhược, tà nhiệt chưa giải, nên gọi là hư phiền. Người viết cho rằng nhận định này chưa thật chuẩn xác.
Hội chứng nhiệt uất hung cách với “Hư phiền bất đắc miên” là chứng trạng chính, trường hợp bệnh nặng còn xuất hiện “Tất phản phục điên đảo, tâm trung áo não” (Phản phục điên đảo, trong lòng buồn bực). “Bất đắc miên” (không ngủ được) và “phản phục điên đảo” có ý tứ gần giống nhau, nhưng ở câu sau nhấn mạnh tình trạng trở mình trằn trọc, khó vào giấc ngủ, mức độ nặng hơn, mà nguyên nhân lại chính là “Tâm trung ảo não”. Trong lòng ảo não, buồn giận nhưng không biết kể như thế nào. Lưu Hà Gian trong {Thương hàn Trực Cách} hình dung cảm giác này, giống như trúng độc Ba đậu hoặc Thảo ô đầu, trong người rất khó chịu.
Đối với tình huống này, cần phải thanh nhiệt trừ phiền, dùng thang Chi tử thị. Trong phương có vị Chi tử đắng lạnh, có khả năng dẫn tâm hỏa đi xuống; Thể nhẹ, lại có thể lan tỏa ở nơi trong sạch. Cũng có thể nói, Chi tử có thể thanh nhiệt ở trong, còn có thể giáng uất hỏa. Đậu thị giải biểu tuyên nhiệt, giáng lợi vị khí. So sánh mà nói, Chi tử trong phương chủ giáng xuống, Đậu thị chủ tuyên (lan tỏa) Chi tử trong giáng có tuyên, Đậu thị trong tuyên có giáng, có tác dụng thăng giáng âm dương hàn nhiệt, có thể tán uất khai kết. Cũng có nhà chú thích cho rằng, Chi tử màu hồng, Đậu thị màu đen, dùng hình tượng để xếp loại, do đó Chi tử dẫn hỏa đi xuống, Đậu thị dẫn âm khí thăng lên. Đồng thời, Chi tử thể nhẹ, có thể lan tỏa, có thể thẩm thấu, hiệu quả thanh nhiệt lợi thấp rất tốt, như trong thang Nhân trần hao thang dùng Chi tử lợi tiểu tiện.
Y gia hậu thế kế thừa phép sử dụng thuốc của {Thương Hàn Luận}, khi trị chứng tâm phiền thì dùng Chi tử mà không dùng Hoàng liên, Hoàng cầm. Thí dụ như, “Tiêu dao lợi tỳ nhi thanh can, huyết hư cốt chưng hàn nhiệt phiền” (逍遙利脾而清肝,血虚骨蒸寒热烦), nếu như xuất hiện tâm phiền, cần gia Chi tử và Mẫu đan bì (trong thang Đan Chi Tiêu dao). Lại như, “Việt cúc hoàn trị lục ban uất, khí huyết đàm hỏa thấp thực nhân, Khung Thương Hương phụ kiêm Chi Khúc, khí sướng uất thư thống muộn thân” (Khí thông sướng, uất thư thái, hết đau đớn phiền muộn), đối với hỏa uất thì dùng vị Chi tử.
Phần sau phương thang viết câu “得吐者, 止后服” (đắc thổ giả, chỉ hậu phục) Nếu thổ được thì ngừng uống. Nếu giải thích là sau khi uống sẽ ẩu thổ, như vậy Chi tử thị thang sẽ thành thổ tễ (thuốc gây ẩu thổ). Căn cứ theo nhận thức lâm sàng của người viết, uống thang này có lúc bệnh nhân thổ, có lúc bệnh nhân không thổ, là những tình huống cụ thể thấy được trên lâm sàng. Người viết từng điều trị cho một bệnh nhân họ Vương hơn 20 tuổi, cảm mạo phát nhiệt ít ngày sau xuất hiện trong lòng buồn bực, tâm phiền, ngồi nằm không yên. Lúc người viết đến thấy bệnh nhân rất bứt rứt, phiền muộn, mạch rất nhanh, đầu lưỡi rất hồng, còn có rêu lưỡi vàng. Người viết cho uống Chi tử thị thang, sau khi uống đến tối thì ẩu thổ, sau đó bệnh nhân ngủ tốt, mạch tượng cũng không còn nhanh nữa.
Loại ẩu thổ này là biểu hiện của chính khí khu trừ bệnh tà ra ngoài. Nếu như ở vị tràng (ruột và dạ dày), luôn luôn được giải qua đi tả, “虽暴烦下利,日数十行,必自止。所以然者,以腐秽当去故也” (tuy bạo phiền hạ lợi nhật số thập hành, tất tự chỉ. Sở dĩ nhiên giả, dĩ hủ di đương khứ cố dã) tuy chứng tâm phiền nặng đi tả ngày vài chục lần, tất sẽ tự ngừng. Sở dĩ như vậy, vì chất thối rữa đã ra hết . Nếu như cũng là chứng phiền uất, lực của bệnh tà nhẹ, thì bệnh nhân có khi không thổ.
“若少气者,栀子甘草豉汤主之” (Nhược thiểu khí giả, Chi tử Cam thảo thang chủ chi), Nếu hơi thở yếu, Chi tử Cam thảo thang trị bệnh này, nhiệt tà trong ngực, tất nhiên khí bị tổn thương, sẽ xuất hiện “Thiểu khí”. Thiểu khí không giống đoản khí, thiểu khí là hô hấp nhỏ và yếu, tự cảm thấy khí không nhiều; Đoản khí chính là hô hấp cấp bách, lại có sự ngăn trở. Vì thế, thiểu khí thuộc hư, đoản khí thuộc thực. Vì có hỏa uất, nên không thể dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ để bồi bổ, chỉ có thể gia Cam thảo để hòa hoãn, kèm theo có thể ích khí, lại không trợ giúp phiền nhiệt.
“若呕者, 栀子生姜汤主之”(Nhược ẩu giả, Chi tử Sinh khương thang chủ chi) Nếu ẩu thổ, thang Chi tử Sinh khương trị bệnh này, uất nhiệt bức bách vị (dạ dày), vị khí nghịch lên, sẽ gây Q“ẩu” (nôn). {Y Tông Kim Giám} viết: Quá nhiệt có thể bức bách vị ẩm (nước trong dạ dày) nghịch lên. Vì có uất hỏa, vì thế không thể dùng vị Bán hạ táo liệt (khô và mãnh liệt), chỉ có thể gia Sinh khương để giáng nghịch trị ẩu thổ, kiêm tán thủy ẩm trong vị (dạ dày), Sinh khương phối Chi tử có khả năng tán uất hỏa, tán thủy ẩm, còn có thể hòa vị, kiện vị.
77发汗、若下之而烦热,胸中窒者,栀子豉汤
主之。C81
Điều77 Phát hãn, nhược hạ chi nhi phiền nhiệt, hung trung trất giả, Chi tử thị thang chủ chi.
Dịch: Phát hãn, nếu công hạ mà phiền nhiệt, trong ngực bị tắc nghẽn, thang Chi tử thị chủ trị bệnh này.
78伤寒五六日,大下之后,身热不去,心中结
痛者,未欲解也,栀子豉汤主之。C82
Điều 78
Thương hàn ngũ lục nhật, đại hạ chi hậu, thân nhiệt bất khứ, tâm trung kết thống giả, vị dục giải dã, Chi tử thị thang chủ chi.
Dịch:
Thương hàn 5,6 ngày, sau khi công hạ mạnh mẽ, thân nhiệt không hạ, đau trong tim, chưa muốn giải bệnh. Thang Chi tử thị chủ trị bệnh này.
Hai đoạn văn này trình bày phân biệt hội chứng và trị liệu của chứng hỏa uất ảnh hưởng lên khí phận và huyết phận.
“发汗,若下之” (Phát hãn, nhược hạ chi), phát hãn, nếu dùng phép hạ chính là đường đi của bệnh.“ 烦热” Phiền nhiệt, có thể chỉ về tâm phiền và thân nhiệt, lại có thể đặc biệt chỉ về chứng tâm phiền, cả hai thuyết đều được; “胸中窒” (Hung trung trất) Tắc nghẽn trong ngực, trất là tắc nghẽn, Khí trong lồng ngực nghẹt tắc. Trọng điểm của điều 81 ở điểm mới là lồng ngực bị nghẹt tắc, cho thấy chỉ ảnh hưởng đến khí phận, không ảnh hưởng đến huyết phận, vì thế lồng ngực bị nghẹt tắc nhưng không đau đớn. Nhiệt kết ở khí phận, chứng trạng tuy khác biệt, bệnh cơ vẫn không biến hóa, vì thế vẫn dùng “Chi tử thị thang chủ chi” , mà không cần gia các vị thuốc lợi khí như Chỉ xác.
“伤寒五六日,大下之后” (Thương hàn ngũ lục nhật, đại hạ chi hậu), Bệnh thương hàn 5,6 ngày, sau khi đại hạ, đây chính là đường đi của bệnh. “身热不去”(Thân nhiệt bất khứ), có ý nói thân nhiệt chưa giải: “心中结痛者” (Tâm trung kết thống giả), “Tâm trung” ở đây chính là nghĩa hẹp, không cần để ý đến chữ hung (lồng ngực), mà chính là ở trong tim. Khi hỏa uất tăng nặng thêm một bậc, ảnh hưởng đến công năng chủ huyết mạch của tim, không thông thì đau (bất thông tắc thống) nên bệnh nhân cảm thấy đau, vì thế nói là “vị dục giải dã” là bệnh chưa giải. Nhiệt kết ở huyết phận, chứng trạng tăng nặng, bệnh cơ y nguyên không biến hoá, vì thế vẫn dùng “Chi tử thị thang chủ chi”, không cần gia các vị thuốc hoạt huyết hoá ứ như Đan sâm , Uất kim.
79伤寒下后,心烦、腹满、卧起不安者,栀子
厚朴汤主之。C83
Điều 79
Thương hàn hạ hậu, tâm phiền, phúc mãn, ngoạ khởi bất an giả, Chi tử Hậu phác thang chủ chi.
Dịch: Bệnh thương hàn sau khi công hạ, tim buồn bực, đầy bụng, nằm không yên mà dậy cũng không yên, thang Chi tử Hậu phác chủ trị chứng này.
Chi tử Hậu phác thang: Chi tử 14 quả, bổ
Hậu phác 4 lạng, sao gừng
Chỉ thực 4 quả, ngâm nước, bỏ phần ruột, sao
3 vị thuốc trên, dùng 3,5 thăng nước, nấu còn 1,5 thăng, bỏ bã, phân hai lần uống thuốc còn ấm, thổ ra được thì không uống lần sau.
Đoạn văn này phân tích hội chứng và trị liệu của chứng hư phiền kèm theo đầy bụng.
Bệnh thương hàn sau khi hạ nhầm, nhiệt tà nhập vào trong, lên đến lồng ngực vì thế tâm phiền muộn, trường hợp nặng bệnh nhân nằm không yên mà dậy cũng không yên; Xuống đến vị quản (khoang dạ dày), vị khí bất lợi, vì thế đầy bụng. Loại đầy bụng này không giống với dương minh vị gia thực (xem ở phần trên ở câu 67) chỉ là nhiệt kết với khí chèn ở giữa ngực và bụng. Nếu như có thực tà, sẽ xuất hiện đau bụng táo bón. Điều trị dùng thang Chi tử Hậu phác thanh nhiệt tuyên uất, lợi khí tiêu mãn (đầy).
Thành phần của Chi tử Hậu phác thang gồm Chi tử, hậu phác và Chỉ thực; Thực tế chính là thang Tiểu thừa khí khứ vị Đại hoàng gia Chi tử, vì chứng đầy bụng này là do khí trệ mà không thực, vì thế không dùng vị Đại hoàng để tả hạ; Vì biểu tà đã hoá nhiệt nhập lý (nhập vào trong), bức bách dạ dày, bụng, nên không dùng đậu thị để điều trị. Trong phương dùng Chi tử thanh nhiệt trừ phiền, , Chỉ thực, Hậu phác lợi khí tiêu đầy trướng.
Người viết về Quận Tiềm Giang Hồ Bắc thăm bệnh cho một phụ nữ họ Đồng 37t, chứng trạng chủ yếu là phiền muộn ảo não, càng về tối càng tệ hại, phải chạy đến một khoảng đất trống thì tâm lý cải thiện được một chút. Đồng thời còn có các chứng trạng như dạ dày và bụng trướng khí, như có vật nghẹt tắc bên trong, mạch huyền sác mà đầu lưỡi hồng, gốc lưỡi có rêu vàng, nước tiểu màu vàng, đại tiện bình thường. Người viết chẩn đoán đây là chứng hung cách tâm vị hoả uất, vị khí bất hoà, bắt đầu dùng Chi tử Hậu phác thang. Sau khi uống bệnh biến chuyển tốt, và cũng không tái phát.
80伤寒,医以丸药大下之,身热不去,微烦者,栀子干姜汤主之。C84
Điều 80. Thương hàn, y dĩ hoàn dược đại hạ chi, thân nhiệt bất khứ, vi phiền giả, Chi tử can khương thang chủ chi. C84
Dịch: Bệnh thương hàn, thày thuốc hạ mạnh bằng thuốc hoàn, thân nhiệt không hết, hơi buồn bực, thang Chi tử Can khương chủ trị bệnh này
Phương Chi tử Can khương thang: Chi tử 14 quả, bổ
Can khương 2 lạng
Hai vị thuốc trên, dùng 3 thăng nước, sắc còn 1,5 thăng, bỏ bã, phân hai lần uống nóng, thổ được, không uống lần hai.
“Hoàn dược”, chính là một số thuốc tả hạ lưu hành từ thời nhà Hán, một loại chế từ vị Ba đậu, là thuốc tả hạ có tính nóng, ngoài ra còn một loại chế bằng vị Cam toại là thuốc tả hạ có tính lạnh. Hai loại thuốc tả hạ này đều rất mãnh liệt, vì thế nên gọi là “Đại hạ”.
Thương hàn tại biểu, đại hạ (dùng phép hạ mạnh) gây tổn thương trung khí. Bệnh tà Thái dương ở biểu chưa giải trừ, nên thấy “身热不去” (Thân nhiệt bất khứ); Tà nhiệt đã có thế nhập vào lồng ngực, nên xuất hiện “vi phiền” (hơi bực bội); Sau khi đại hạ, tỳ dương bị tổn thương, vận hoá suy yếu. Vì thế sau khi đại hạ lại tiếp tục có chứng hạ lợi (tiết tả).
Đối với tình huống này, nên ứng dụng “Chi tử Can khương thang chủ chi”. Trong phương Chi tử thanh nhiệt trừ phiền, can khương ôn trung chỉ lợi (trị đi tả). Đây là phương pháp đồng thời sử dụng cả hàn và nhiệt dược.
81 凡用栀子汤,病人旧微溏者,不可与服之。
C85
Điều 81
Phàm dụng chi tử thang, bệnh nhân cựu vi đường giả, bất khả dữ phục chi.
Dịch: Phàm khi uống thang Chi tử, người bị bệnh lâu ngày phân hơi lỏng thì không nên uống.
Đoạn văn này phân tích chứng cấm kỵ của Chi tử thị thang.
“Phàm dụng Chi tử thang”, gồm từ điều 79 đến điều 85, nếu như “病人旧微溏” (Bệnh nhận cựu vi đường) Bệnh nhân thường ngày đại tiện phân lỏng nát, người tỳ vị dương hư thường xuyên đại tiện phân lỏng, cho dù có xuất hiện chứng phiền nhiệt cũng không dùng thang Chi tử thị. Nguyên nhân vì Trung y trị bên trên tất phải quan tâm dưới, trị nhiệt nhưng tách rời hàn, Chi tử thị thang tính lạnh, tác dụng nhanh và rộng (tẩu nhi bất thủ), có thể khiến dương khí của tỳ thận bị tổn thương, vì thế không nên sử dụng. Cá nhân người viết cho rằng, nếu thực sự cần sử dụng Chi tử thị thang, cần chú ý hai điểm sau: Thứ nhất, sử dụng lượng ít; Thứ hai, lấy Chi tử Can khương thang làm thí dụ, gia thêm các vị thuốc ôn bổ tỳ thận, thuốc hàn thuốc nhiệt cùng sử dụng.
82太阳病发汗,汗出不解,其人仍发热,心下
悸,头眩,身瞤动,振振欲擗地者,真武汤主之。
C86
Điều 82
Thái dương bệnh phát hãn, hãn xuất bất giải, kỳ nhân nhưng phát nhiệt, tâm hạ quý, đầu huyễn, thân nhuận động, chấn chấn dục tịch địa giả, Chân võ thang chủ chi.
Thái dương bệnh phát hãn, hãn xuất không giải bệnh, người bệnh phát sốt, hồi hộp dưới tim, hoa mắt, da thịt máy động, run rẩy như muốn ngã xuống đất, thang Chân võ chủ trị bệnh này.
Đoạn văn trình bày chứng và trị liệu của Thái dương bệnh vì phát hãn quá độ làm tổn thương dương mà dẫn đến dương hư thuỷ phiếm (nước tràn lên), cần liên hệ kết hợp với kinh nghiệm của hội chứng Ngũ linh tán.
“太阳病发汗” (Thái dương bệnh, phát hãn) Thái dương bệnh cần phải phát hãn, “汗出不解”(hãn xuất bất giải), nếu như mồ hôi xuất quá nhiều, sẽ tổn thương dương khí trong Thiếu âm thận, nên không khỏi bệnh. “其人仍发热,心下悸,头眩,身瞤动”(Bệnh nhân nhưng phát nhiệt, tâm hạ quý, đầu huyễn, thân nhuận động) Bệnh nhân vẫn phát sốt, dưới tim hồi hộp. hoa mắt, thân thể co giật, dương khí của Thiếu âm hư tổn, thuỷ hàn tà mạnh ở bên trong, dương khí vượt ra ngoài nên bệnh nhân phát nhiệt. Thận là tạng chủ thuỷ, dương hư khiến chủ thuỷ không có quyền lực, âm tà tương tranh với dương, nên tâm hạ quý, hoa mắt. Dương hư âm thịnh, kinh mạch toàn thân không được dương khí nuôi dưỡng đầy đủ, nên thân thể co giật, run rẩy muốn ngã ra. Chấn chấn có nghĩa là run rẩy, muốn ngã ra đất, là đứng không ổn định. Phần trên là những chứng trạng điển hình của thuỷ tà tràn ra toàn thân.
Liên quan đến “心下悸”(Tâm hạ quý) , có nhà chú thích cho rằng đây là tâm hạ (vị quản) hồi hộp, có nhà chú thích cho rằng chính là tim hồi hộp. Căn cứ theo quan sát lâm sàng của người viết, cả hai tình huống trên đều có. Thuỷ tà nghịch lên, âm tương tranh với dương, khi khí nghịch lên đến vị quản sẽ làm dưới tim hồi hộp (tâm hạ quý), lên đến tạng tâm thì tâm cũng hồi hộp. Lão đại phu Trần Thận Ngô dùng Chân Võ thang và Linh Quế Truật Cam thang hợp phương trị liệu chứng hồi hộp do thuỷ khí xâm phạm tâm, thu được hiệu quả phi thường tốt.
Chứng dương hư thuỷ phiếm không những xuất hiện chóng mặt, còn xuất hiện chứng đau đầu. Người viết đã khám bệnh cho những người lái xe, chứng trạng chủ yếu là đau đầu về ban đêm, có lúc muốn đập đầu vào tường, hoặc dùng tay đánh vào đầu để giải toả, nhưng vô hiệu. Người viết dùng qua 3,4 phương, cũng không kiến hiệu. Người viết đã nói chuyện với anh ta một cách chi tiết, làm thế nào mà anh ta mắc bệnh? Anh ấy nói rằng anh ấy là một người lái xe, anh ấy không thể uống nước khi đi làm vào mùa hè, sau khi làm việc anh ta rất khát nước, anh ta uống nước lạnh, anh ta cảm thấy rất thoải mái sau khi uống, nhưng có thể vì thế mà đau đầu. Người viết khám lại bệnh nhân, má bệnh nhân có màu đen, mạch trầm, chính là thuỷ chứng điển hình. Người viết cho bệnh nhân uống thang Chân võ, uống xong liền khỏi bệnh.
Đối với tình huống này, phải dùng Chân Võ thang khu hàn, chấn thuỷ, phù trợ dương. Dương khí của Thiếu dương trấn thủ ở dưới. Trấn phục hàn thuỷ ở hạ tiêu. Phương thang này có thể giúp dương khí của Thiếu dương chế ngự thuỷ, vì thế tên khai sinh của nó là Huyền võ thang. Về sau vị kỵ huý nên cải thành Chân võ thang. Trần Tu Viên phương ca viết: “Sinh Khương Thược Phục số giai nhị, nhị lạng Bạch truật nhất phụ thâm, tiện đoản khái tần kiêm phúc thống, khu hàn trấn thuỷ dữ quân đàm” (生姜芍茯数皆二,二两白术一附探,便短咳频兼腹痛,驱寒镇水与君谈。)Sinh khương Bạch thược Phục linh đều là 2, 2 lạng Bạch truật, một lạng Phụ tử, trị các chứng tiểu tiện bất lợi, ho nhiều kiêm đau bụng, trừ lạnh, trấn thuỷ. Ở đây không nói về ý nghĩa của thang Chân võ, sẽ được giới thiệu thang này ở thiên Thiếu âm bệnh.
Hội chứng thang Chân võ và hội chứng Ngũ linh tán đều là thuỷ chứng, nên phân biệt : Hội chứng thang Chân võ chính là Thiếu âm thuỷ thũng dương suy, không có năng lực điều khiển thuỷ mà thuỷ tà lan tràn, chứng trạng chủ yếu là phát sốt, hồi hộp dưới tâm (tâm hạ quý), hoa mắt, thân thể run rẩy, muốn ngã ra; Hội chứng Ngũ linh tán chính là Thái dương thuỷ phủ khí hoá thất thường mà thuỷ dịch tích trữ, chủ chứng là khát nước, tiểu tiện bất lợi, tâm phiền.
83咽喉干燥者,不可发汗。C87
Điều 83 Yết hầu can táo giả, bất khả phát hãn.
Dịch: Cổ họng khô khan, không thể phát hãn
84淋家不可发汗,发汗必便血。C88
Điều 84 Lâm gia bất khả phát hãn, phát hãn tất tiện huyết.
Dịch: Tiểu tiện không thuận lợi, phát hãn sẽ đại tiện ra máu.
85疮家虽身疼痛,不可发汗,发汗则痓。C89
Điều 85. Sang gia tuy thân đông thống, bất khả phát hãn, phát hãn tất 痓 (chưa có nghĩa chữ này). Dịch: Bị nhọt loét lâu ngày tuy thân thể đau đớn cũng không thể phát hãn, nếu phát hãn tất (痓).
86衄家不可发汗,汗出必额上陷,脉急紧,直
视不能眴,不得眠。C90
Điều 86. Nục gia bất khả phát hãn, hãn xuất tất ngạch thượng hãm, mạch cấp khẩn, trực thị bất năng huyễn bất đắc miên.
Dịch: Chảy máu mũi không thể phát hãn, hãn xuất thì trán hãm xuống, mạch cấp khẩn, mắt nhìn thẳng không thể làm hiệu bằng mắt, không ngủ được.
87亡血家,不可发汗,发汗则寒栗而振。C91
Điều 87. Vong huyết gia, bất khả phát hãn, phát hãn tắc hàn lật nhi chấn.
Dịch: Bệnh nhân bị bệnh mất máu gọi là Vong huyết gia không thể phát hãn, phát hãn sẽ bị rét run vì lạnh.
88汗家重发汗,必恍惚心乱,小便已阴疼,与禹余粮丸。C92
Điều 88. Hãn gia trùng phát hãn, tất hoảng hốt tâm loạn, tiểu tiện dĩ, âm đông, dữ Vũ dư lương hoàn.
Dịch : Người nhiều mồ hôi, dễ xuất mồ hôi gọi là hãn gia, nếu phát hãn tất tâm hoảng loạn, tiểu tiện hạ bộ bị đau, uống hoàn Vũ dư lương.
89病人有寒,复发汗,胃中冷,必吐蛔。C93
Điều 89. Bệnh nhân hữu hàn, phục phát hãn, vị trung lãnh, tất thổ hồi.
Bệnh nhân tạng hàn (lạnh), lại phát hãn, trong dạ dày lạnh, tất thổ ra giun.
Từ điều C87 đến điều C93 là những mẫu thí dụ không thể phát hãn.
Trị liệu Thái dương bệnh chủ yếu dùng phép phát hãn, liên quan đến nguyên tắc phát hãn, chúng ta đã được giới thiệu ở phần trên.
Bảy điều phân biệt là “Yết lâm sang nục huyết hãn hàn” (咽淋疮衄血汗寒), trọng điểm phân tích người hư yếu tức là nguyên nhân khiến tà khí tồn tại, cũng là tình huống không thể phát hãn.
“Yết hầu khô khan, không thể phát hãn”, thể lệ (các trình bày) của điều này không giống với 6 điều còn lại, không miêu tả các chứng trạng xấu xuất hiện sau khi phát hãn, có thể do thiếu sót thất lạc. Yêt hầu là nơi trọng yếu trên cơ thể, yết hầu thông với phổi, thông với dạ dày. Trung y cho rằng “Đầu vi chư dương chi hội” (头为诸阳之会)Đầu là nơi chư dương tụ hợp, mà yết hầu chính là “Chư dương chi sở tập dã” (诸阳之所集也)Là nơi chư dương tụ tập, túc thiếu âm chính là thông vào yết hầu. Vì yết hầu phát thanh âm, ăn uống, thông hô hấp, vì thế cần có đủ âm dịch để nuôi dưỡng. Khi yết hầu bị khô, cho thấy không chỉ là vấn đề âm hư, mà chính là âm của Thiếu âm, tân dịch của Thái âm đều không đầy đủ. Tức là khiến cho dù có biểu chứng đồng thời tồn tại, cũng “không thể phát hãn”, nguyên nhân vì “Hãn sinh ở âm”, phát hãn là làm tổn thương âm và hỗ trợ dương, xuất hiện hậu quả không tốt.
“Lâm gia bất khả phát hãn, phát hãn tất tiện huyết”, “Lâm” là tiểu tiện không thuận lợi, có khi đau khi tiểu tiện. Người bị bệnh khá lâu, gọi là lâm gia. Lâm bệnh thường đều do có nhiệt ở bàng quang, nguyên nhân là thận âm bị tổn thương gây ra. Thận và Bàng quang có quan hệ biểu lý, nhiệt của bàng quang cần giải trừ, tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến tạng hợp với nó (bàng quang) ở đây là tạng thận, sẽ gây tổn thương âm của Thiếu âm. Phủ bàng quang nóng nhiệt, thiếu âm tạng âm hư, vì thế không thể phát hãn. Cố chấp phát hãn khi thiếu âm âm hư sẽ động huyết, xuất hiện “Tất tiện huyết”
Sang gia, tuy thân thể đau nhức không thể phát hãn, phát hãn tắc“ 痓” Bản của tiên sinh họ Triệu ghi là “痉”( kinh), co giật, chính là chỉ kinh mạch co quắp, thân thể như cây cung kéo dây ngược (giác cung phản trương).
“Sang gia” là chỉ về người bị bệnh nhọt loét lâu ngày, người bị chảy máu mủ một thời gian dài. “tuy thân thể đau nhức”, có nhà chú thích cho rằng là do quá trình chảy máu mủ kéo dài làm tổn thương doanh vệ, không thể nuôi dưỡng cơ thể, người khác thì cho rằng do sang gia lại bị bệnh thương hàn, hàn tà ảnh hưởng phần biểu mà làm thân thể đau nhức. Bất luận là tình huống nào, nếu phát hãn nhầm cho người hư yếu, sẽ phát sinh bệnh co giật. Trên thực tế, bệnh co giật đã thuộc về ngoại cảm, cũng thuộc về nội thương tạp bệnh. Tức là sang gia không nên phát hãn, cũng có khả năng xuất hiện chứng co giật. Vì thế, nếu như lại phát hãn nhầm một lần nữa, sẽ thúc đẩy sự xuất hiện của bệnh. {Y Tông Kim Giám} ở “Tạp Bệnh Tâm Pháp Yếu Quyết” viết “Kính bệnh hạng cường bối phản trương, hữu hãn vi nhu vô hãn cương, hội sang cẩu giảo phá phong thương” (痉病项强背反张,有汗为柔无汗刚,生产血多过汗后,溃疮狗咬破风伤。) Bệnh co giật gáy cứng, lưng cong như cây cung kéo ngược, có mồ hôi thân thể mềm, không có mồ hôi thân thể cứng, sau khi sinh mất nhiều máu, sau khi phát hãn quá độ, lở loét đau như bị chó cắn gọi là phá thương phong, “Quá hãn hậu” chính là sau khi phát hãn; “Hội sang”, là sang gia.
“Nục gia bất khả phát hãn, hãn xuất tất ngạch thượng hãm, mạch cấp khẩn, trực thị bất năng huyễn” (衄家不可发汗,汗出必额上陷,脉急紧,直视不能眴) Người bệnh chảy máu mũi không thể phát hãn, hãn xuất ra thì trán hãm xuống, mạch cấp khẩn, mắt nhìn thẳng không thể làm hiệu bằng mắt, cũng có bản đọc là “Trực thị bất năng thuấn (chớp mắt)”, ‘Huyễn”, mắt dao động, “Bất năng huyễn” là con ngươi mắt hoạt động không linh hoạt. Đây là một điều gây tranh luận, ngoại trừ theo nguyên văn để đoán, còn có thay đổi dấu chấm câu: “nục gia bất khả phát hãn, hãn xuất tất ngạch thượng hãm mạch cấp khẩn” . Giải thích cũng khác biệt. “Ngạch thượng hãm”, có nhà chú thích, cho rằng ngạch thượng hãm mạch, cấp khẩn là ở mé trên của trán; “Mạch cấp khẩn”, có người cho rằng chính là mạch cấp khẩn của ba bộ Thốn, Quan và Xích. Người viết không đồng ý cả hai ý kiến trên, đồng ý là “Ngạch thượng hãm, mạch cấp khẩn” . “Nục gia” Bệnh nhân bị chảy máu mũi lâu ngày. Chứng chảy máu mũi (Tỵ nục) là xuất huyết ở dương lạc, đi đại tiện ra máu là xuất huyết ở âm lạc. Đường kinh dương có nhiệt sẽ xuất hiện tỵ nục, xuất huyết sẽ tổn thương âm và háo huyết, tái phát nhiều lần sẽ hình thành chứng âm hư nội nhiệt. Tức là khiến dù có thương hàn biểu chứng cũng không thể phát hãn. Nếu miễn cưỡng phát hãn cho bệnh nhân âm hư, sẽ gây tổn thương cho âm và hỗ trợ nhiệt. Âm huyết thụ thương, cơ nhục trên trán sẽ bị sụt lún, huyết mạch trên trán sẽ cấp khẩn. Các mạch đều liên quan đến mắt, mà mạch cấp khẩn, hai mắt sẽ trực thị, chuyển động của nhỡn cầu không linh hoạt. Dương thịnh âm hư, âm không thể kiềm chế dương, nên mất ngủ.
“Vong huyết gia bất khả phát hãn, phát hãn tắc hàn lật nhi trấn” (亡血家不可发汗,发汗则寒栗而振) , “Vong” nói theo thất tự (những chữ không chắc chắn) thì chữ vong ở đây không có ý là diệt vong. Phàm những bệnh nhân xuất hiện mất máu nhiều lần, thì gọi là vong huyết gia. Mất máu nhiều lần, tất nhiên huyết bị hư tổn. Tức là khiến cho dù có biểu chứng thương hàn cũng không thể phát hãn. Nếu như miễn cưỡng phát hãn cho bệnh nhân vong huyết lâu ngày, chẳng những tổn thương âm huyết, mà còn tổn thương cả dương khí, xuất hiện lạnh khắp cả người, thậm chí rét run.
“Hãn gia trùng phát hãn, tất hoảng hốt tâm loạn, tiểu tiện dĩ, âm đông, dữ Vũ dư lương hoàn” (汗家重发汗,必恍惚心乱,小便已,阴疼,与禹余粮丸), “Hãn gia”, là bệnh nhân thường xuyên xuất hãn (xuất mồ hôi). Xuất hãn lâu ngày tất hư tổn, tức là khiến cho dù có thương hàn biểu chứng, cũng không thể phát hãn. Hãn là dịch (chất lỏng) của tâm, tâm chủ huyết, nên hãn cũng là dịch của máu. Miễn cưỡng phát hãn cho hãn gia (bệnh nhân thường xuyên xuất hãn), tất nhiên tâm dịch sẽ bị tổn thương, tâm hư thì thần hư, sẽ không thể tuỳ ý, xuất hiện tinh thần hoảng hoảng hốt hốt không thể tự chủ. “Hoảng hốt ”, là có diện mạo bất minh, tình trạng tựa như trong sáng mà không trong sáng, tựa như tối tăm mà không tối tăm. Tâm có tương quan biểu lý với Tiểu tràng, tâm âm hư dẫn đến Tiểu tràng âm hư sinh nhiệt, sẽ xuất hiện “小便已,阴疼” (Tiểu tiện dĩ, âm đông) tiểu tiện, đau ở âm bộ. Đối với các loại tình huống phải dùng Vũ dư lương hoàn trị liệu. Chẳng qua phương thang này đã bị thiếu. Y gia Thái Chính Ngôn đã bổ sung được thành phần của phương thang trong {Tô Sinh Đích Kính}, có thể tham khảo, chính là Vũ dư lương, Long cốt, Mẫu lệ. Diên đan, Phục linh, Nhân sâm tất cả tán thành bột, hoàn bằng nước cơm, dùng Chu sa làm áo, hoàn thuốc hạt như đậu xanh, mỗi lần uống từ 1 đến 2 chỉ.
“病人有寒,复发汗,胃中冷,必吐蛔” (Bệnh nhân hữu hàn, vị trung lãnh, tất thổ hồi), “Bệnh nhân hữu hàn”, là tạng phủ bị lạnh, là từ khái quát. “Phục phát hãn”, “Phục” là “Đảo ngược”, nếu như còn phát hãn, tạng càng bị lạnh hơn. Tạng phủ hư hàn, vị khí thượng nghịch, sẽ ẩu thổ. Nếu như trong ruột có giun, thậm chí sẽ thổ ra giun. Căn cứ theo kinh nghiệm lâm sàng, thổ ra giun không ngừng là tiên lượng không tốt. Nếu như thổ ra giun mà không thể ăn uống, là có nguy hiểm của vị phủ suy bại. Còn có một ý kiến khác, nếu thổ ra giun chết cũng là những tiên lượng không tốt.
Tóm tắt nội dung 7 điều nêu trên, chính là khi chính khí hư tổn thì không được phát hãn. Liên quan đến thương hàn kèm theo hư chứng, phần trên chúng ta đã nói về “Xích trung mạch vi”( 尺中脉微)Mạch vi trong bộ xích và “Xích trung trì giả bất khả phát hãn. Hà dĩ tri kỳ nhiên? Dĩ doanh khí bất túc, huyết thiểu cố dã” (尺中迟者不可发汗。何以知之然?以营气不足,血少故也”mạch trì trong bộ xích không thể phát hãn. Tại sao như vậy?, nguyên nhân là doanh khí bất túc và huyết ít, chính là nói theo hình tượng mạch, 7 điều này là nói theo chứng, kết nối liên tiếp trước sau để tìm hiểu. Đối với những bệnh chứng này, đồng thời không tuyệt đối là không thể phát hãn, Trương Cảnh Nhạc có phép bổ dương phát hãn, “Thiên kim phương” có phép tư âm phát hãn, còn có phép bổ khí dưỡng huyết phát hãn.
Bảy điều trên nhắc nhở chúng ta không nên chỉ chú trọng vào tà khí, mà bỏ quên chính khí, cần quán triệt tư tưởng bảo vệ vị khí và bảo tồn tân dịch. Thời kỳ hậu Hán điều kiện y tế còn rất hạn chế, muốn tránh sai lầm, phải đặt ra những quy tắc để ngăn chặn. Ngoài ra còn có ý kiến cho rằng bảy điều nêu trên là những chứng cấm kỵ của thang Ma hoàng.
90本发汗而复下之,此为逆也;若先发汗,治
不为逆。本先下之,而反汗之为逆;若先下之,治不为逆。C94
90 Bản phát hãn nhi phục hạ chi, thử vi nghịch dã; Nhược tiên phát hãn, trị bất vi nghịch. Bản tiên hạ chi, nhi phản hãn chi vi nghịch; Nhược tiên hạ chi, trị bất vi nghịch. C94
Dịch: Cần phát hãn mà lại hạ là nghịch; Nếu phát hãn trước là điều trị không nghịch. Cần công hạ trước, mà lại phát hãn là nghịch; Nếu hạ trước là điều trị không ngịch.
Đoạn văn trên trình bày phép trị bệnh của biểu chứng và lý chứng, nói theo vị trí bệnh, đây chính là quy tắc và cũng là quy định thông thường.
Đoạn văn gồm hai ý. Ý thứ nhất tương đối đơn giản, “Bản phát hãn”, hai chữ phát hãn cho biết đây là biểu chứng, cần phải phát hãn, cho nên gia thêm chữ “bản”. “Nhi phục hạ chi”(Mà lại công hạ), lại dùng phép công hạ, là nghịch là không thuận lý. Nghịch tức là không thuận, nếu như phát hãn trước, là “Trị bất vi nghịch” (Điều trị không nghịch) là điều trị đúng.
Ý thứ hai sâu sắc hơn. “若先发汗,治不为逆”(Nhược tiên phát hãn trị bất vi nghịch) Nếu phát hãn TRƯỚC là điều trị đúng “本先下之,而反汗之,为逆”(Bản tiên hạ chi, nhi phản hãn chi vi nghịch) Cần phải hạ TRƯỚC, nhưng lại phát hãn là điều trị không đúng, cả hai câu đều có chữ TRƯỚC, có TRƯỚC tất sẽ có SAU, vì thế bệnh này không phải là một mặt của vấn đề, mà có thể là hai mặt của vấn đề, đã có hai mặt của vấn đề, trong việc điều trị cần phải phân thành trước sau. “本发汗”(bản phát hãn) Vốn dĩ phát hãn, vốn dĩ cần phải phát hãn, phát hãn có tốt cho mọi bệnh? Cũng không hẳn như vậy, có trường hợp khỏi bệnh sau một lần phát hãn, có khi thì không, khi biểu tà không giải, có thể tái phát hãn, “Nhi phản hạ chi, thử vi nghịch dã” (而反下之,此为逆也) Nếu lại tả hạ, đó là điều trị không đúng. Vì sao cần tả hạ? Suy đoán có biểu chứng và lý chứng. Nếu như, cho dù có biểu chứng và lý chứng, khi biểu chứng chưa giải lại được giải biểu trước, thì đó chính là quy định. “Bản tiên hạ chi, nhi phản hãn chi vi nghịch” (本先下之,而反汗之为逆) Vốn dĩ nên công hạ trước, nhưng lại phát hãn là điều trị sai, bệnh có biểu chứng và lý chứng, nếu như lý chứng nặng hơn so với biểu chứng, lúc này cần phải tả hạ trước, rồi sau đó trị biểu. Nếu trong trường hợp này lại dựa theo quy định là giải biểu trước mà phát hãn thì cũng chính là điều trị sai lầm.
91伤寒医下之,续得下利,清谷不止,身疼痛
者,急当救里;后身疼痛,清便自调者,急当救表。救里宜四逆汤;救表宜桂枝汤。C95
91 Thương hàn y hạ chi, tục đắc hạ lợi, thanh cốc bất chỉ, thân đông thống giả, cấp đương cứu lý; Hậu thân đông thống, thanh tiện tự điều giả, cấp đương cứu biểu. Cứu lý nghi Tứ nghịch thang; Cứu biểu nghi Quế chi thang. C95
Dịch: Bệnh thương hàn thày thuốc công hạ, tiếp theo là tiết tả, (thanh cốc bất chỉ) không ngừng tiết tả ra thực phẩm chưa tiêu hoá: Thân thể đau, chứng tiết tả thanh cốc đã khỏi, bệnh cấp bách nên cứu biểu. Cứu lý nên dùng thang Tứ nghịch; Cứu biểu nên dùng thang Quế chi.
Đoạn văn trình bày phép trị bệnh biểu lý nhanh hay chậm. Khác với điều 90, điều này giảng về biến pháp.
“伤寒医下之”(Thương hàn y hạ chi), Thái dương bệnh dùng phép công hạ, “续得下利”(Tục đắc hạ lợi) tiếp theo là tiết tả, tuỳ theo cách tả hạ rồi đến tiết tả (đi tiêu lỏng) “Thanh cốc” là thực phẩm còn nguyên chưa biến hoá, cho thấy dương khí Thiếu âm hư hàn không chưng hoá thực phẩm, vì thế gọi là Thiếu âm hạ lợi (tiết tả), mà mức độ bệnh là “Bất chỉ”(Không ngừng), là chứng tiết tả rất nghiêm trọng. Sau khi tả hạ nhầm thì biểu chứng ra sao? “Thân đông thống giả” (thân thể đau nhức) là biểu chứng của Thái dương chưa giải. Đây gọi là tiêu bản hoãn cấp, Thái dương và Thiếu âm có quan hệ biểu lý, đau nhức là Thái dương tiêu hàn, thanh cốc bất chỉ (tiết tả không ngừng) là Thiếu âm bản hàn. Lúc này lý chứng cấp là chính, biểu chứng hoãn là phụ, chúng ta không nên áp dụng quy tắc điều trị biểu trước điều trị lý sau theo lẽ thông thường, vì khí của Tỳ Thận đã không còn kiên cố, nếu miễn cưỡng phát hãn khi bệnh nhân đã hư yếu, không chỉ không phát hãn được, mà còn loại bỏ căn bản của dương khí, xuất hiện biến chứng vong dương. “Cấp đương cứu lý” (急当救里)bệnh thế cấp bách nên điều trị lý, hạ lợi thanh cốc (đi đại tiện ra nước trong kèm theo thực phẩm chưa tiêu hoá) là mâu thuẫn chủ yếu, liên quan đến sự tồn vong của dương khí trên toàn thân, “Cứu lý nghi Tứ nghịch thang” (救里宜四逆汤) Cứu lý nên dùng thang Tứ nghịch, Tứ nghịch thang hồi dương cứu nghịch, bổ dương của Thiếu âm, trị hạ lợi thanh cốc. Nếu dương khí của Thiếu âm đã hồi phục, vì Thiếu âm và Thái dương là biểu lý, nên khí của Thái dương cũng sẽ đầy đủ, biểu chứng thân thể đau nhức có thể được giải trừ.
“Hậu thân đông thống, thanh tiện tự điều giả” (后身疼痛,清便自调者) Sau khi uống thang Tứ nghịch, tuy chứng hạ lợi thanh cốc đã khỏi, nhưng cũng có thể biểu chứng là thân thể đau nhức chưa khỏi, biểu chứng liền tăng lên là mâu thuẫn (đối lập) chủ yếu. Vì sao lại có thêm câu “Cấp đương cứu biểu”? (急当救表) là nên cấp thời cứu biểu. Đây là bệnh có biểu chứng và lý chứng, dương hư mà có hàn, biểu tà không giải. Tuy hiện tại bệnh nhân đại tiện đã điều hoà, nhưng chung quy bệnh đã phát sinh vấn đề dương của Thiếu âm bị hư tổn, nếu không chú trọng đến biểu chứng, tà khí sẽ truyền vào bên trong (lý). “Cứu biểu nghi Quế chi thang” Nên dùng thang Quế chi, tuy thân thể bị đau nhức, cũng không thể dùng thang Ma hoàng, Vì sau khi tả hạ nhầm, dương khí vừa khôi phục không chịu nổi thuốc có tính công kích mạnh như thang Ma hoàng, chỉ có thể dùng thang Quế chi để giải cơ hoà biểu.
92病发热,头痛,脉反沉,若不差,身体疼痛,当救其里,宜四逆汤。C96
92 Bệnh phát nhiệt, đầu thống, mạch phản trầm, nhược bất sai, thân thể đông thống, đương cứu kỳ lý, nghi tứ nghịch thang C96
Dịch: Bệnh phát sốt, đau đầu, mạch lại trầm, nếu không tệ, thân thể đau nhức, nên cứu lý, nên uống thang Tứ nghịch.
Đây là đoạn văn trình bày biến pháp cứu lý hàng đầu của chứng biểu lý đồng bệnh, ý nghĩa tương tự như điều 91, nhưng cụ thể hơn.
“Bệnh phát nhiệt, đầu thống” (病发热,头痛) Phát sốt đau đầu, đây là bệnh ở Thái dương, đúng ra phải thấy mạch phù, hiện tại là mạch không phù “Mạch phản trầm” . Trầm là mạch của Thiếu âm, chủ về Thiếu âm dương hư có hàn, mạch và chứng không phù hợp, vậy nên theo chứng hay theo mạch, hay theo cả mạch và chứng? Nếu theo chứng, phải dùng phép phát hãn, nhưng mạch lại không cho phép phát hãn. Căn cứ vào quan hệ biểu lý của Thái dương và Thiếu âm, thì nhất định phải chú trọng vào mạch trầm của Thiếu âm, đã là Thái dương Thiếu âm đồng bệnh, có thể dùng Ma hoàng Phụ tử Tế tân thang hoặc Ma hoàng Phụ tử Cam thảo thang để ôn kinh tán hàn, chính là bên ngoài tán hàn của Thái dương, bên trong làm ấm hàn của Thiếu âm.
Sau khi dùng phương pháp ôn kinh tán hàn, “Nhược bất sai” (若不差)nếu không tệ, tuy còn biểu chứng “thân thể đông thống” (thân thể đau nhức), vẫn tiếp tục “当救其里”(Đương cứu kỳ lý) điều trị lý chứng mà không cần nghĩ đến biểu chứng nữa. Vì phương pháp ôn kinh tán hàn đều không giải quyết được vấn đề, cho thấy dương khí của Thiếu âm hư suy quá nặng, nếu không dốc sức bồi bổ thiếu âm thì khó đạt được hiệu quả, vì thế không thể gia thêm Ma hoàng Tế tân, phát tán dương khí của Thiếu âm. Cũng có nghĩa là, dương khí của Thiếu âm không đầy đủ là vấn đề chủ yếu, Thái dương biểu chứng là vấn đề thứ yếu. Cần phải bỏ chứng để theo mạch, dùng Tứ nghịch thang để hồi dương cứu nghịch, bồi bổ dương khí cho Thiếu âm.
Mùa đông năm trước, người viết khám cho một bệnh nhân sơ gan bụng có nước, theo lời bệnh nhân vì bụng có nước rất khó chịu, bệnh nhân sắc mặt xanh đen, mạch huyền nhuyễn vô lực, tay chân mát lạnh. Bệnh nhân có cảm giác lạnh toát ở lưng. Một loạt các chứng trạng dương hư, vì thế người viết không dùng phương pháp lợi thuỷ, bắt đầu dùng các vị thuốc ôn bổ như Phụ tử, Can khương, Nhân sâm, Hoàng kỳ. Chứng bụng có nước của bệnh nhân giảm dần, đã có thể đi lên lầu, hiện tại bệnh nhân vẫn còn sống.
Hy vọng mọi người lĩnh hội thật tốt ba điều trên, tuy các bài nói về Thái dương bệnh chính là để giải quyết vấn đề biểu chứng, nhưng biểu chứng cũng luôn luôn có liên hệ với lý chứng. Sau khi lại nói về quy tắc phương pháp phát hãn của Thái dương biểu chứng. Trương Trọng Cảnh Tiên sinh lại tiếp tục đề xuất vấn đề biểu lý hoãn cấp (thong thả cấp bách), chính là có ý nghĩa sâu xa.
93太阳病,先下之而不愈,因复发汗,以此表
里俱虚,其人因致冒,冒家汗出自愈。所以然者,汗出表和故也。里未和,然后复下之。C97
93 Thái dương bệnh, tiên hạ chi nhi bất dũ, nhân phục phát hãn, dĩ thử biểu lý câu hư, kỳ nhân chí mạo, mạo gia hãn xuất tự dũ, sở dĩ nhiên giả, hãn xuất biểu hoà cố dã. Lý vị hoà, nhiên hậu phục hạ chi. C97
Dịch: Thái dương bệnh, trước tiên công hạ không khỏi bệnh, lại phát hãn, nên biểu và lý đều bị hư tổn, người bệnh chỉ có các biểu chứng nhẹ như váng đầu hoa mắt (mạo gia) nên chỉ cần xuất hãn là khỏi bệnh. Sở dĩ như vậy vì hãn xuất thì biểu hoà. Lý chưa hoà, sau đó lại dùng phép công hạ.
Đoạn văn này đề cập đến trị pháp của chứng váng đầu hoa mắt do dùng phép phát hãn và phép hạ không đúng thứ tự.
“太阳病,先下之而不愈,因复发汗” (Thái dương bệnh, tiên hạ chi nhi bất dũ, nhân phục phát hãn) Thái dương bệnh cần phải phát hãn trước, nhưng lại dùng phép tả hạ, đương nhiên không trị được bệnh. “因复发汗” (Nhân phục phát hãn) Vì lại phát hãn, sau đó lại dùng phép phát hãn. Phép hãn phép hạ đảo điên khiến “表里俱虚” (Biểu lý câu hư) Biểu lý đều hư, tả hạ tổn thương ở trong (lý), phát hãn gây tổn thương ở ngoài (biểu). Phàm khi biểu lý đều hư, biểu tà thái dương thường không giải trừ, “冒者,有所遮蔽” (bị che chắn) do khí thanh dương bị tà khí che chắn gây nên. Không có chứng trạng đau đầu cứng cổ, chỉ váng đầu hoa mắt (mạo gia), cho thấy tà khí không nặng, vì thế không cần phát hãn, sẽ hồi phục sau vài ngày, âm dương tự điều hoà, có cơ hội khỏi bệnh khi xuất hãn, “所以然者,汗出表和故也” (Sở dĩ nhiên giả, hãn xuất biểu hoà cố dã) Sở dĩ như vậy, vì hãn xuất thì biểu hoà. “得里未和” (đắc lý vị hoà), ‘Đắc” có ý trì hoãn, chứng huyễn mạo (huyễn vựng) tuy đã biến chuyển tốt, nếu như còn các chứng trạng như đại tiện không thông hoặc tâm phiền, là biểu hiện của dương minh vị khí bất hoà, “然后复下之”Nhiên hậu phục hạ chi) Sau đó lại dùng phép tả hạ, có thể dùng loại thang dược hạ nhẹ nhàng như Điều vị thừa khí thang để hoà vị.
Thái dương bệnh biểu tà không giải, không những đau đầu, mà còn huyễn mạo (huyễn vựng). Đây là một điều bổ sung đối với hội chứng Thái dương bệnh. Dùng chứng để suy đoán nguyên nhân, vựng đầu hoa mắt thiên về phong tà, cái gọi là “无痰不作眩” (Vô đàm bất tác huyễn), “无风不作眩” (Vô phong bất tác huyễn). (không đàm không chóng mặt váng đầu), ( Không có phong không chóng mặt váng đầu) . Trên lâm sàng có một số bệnh nhân huyễn mạo, tỉ như hội chứng Meniere, chóng mặt rất tệ hại, khi xuất được mồ hôi chứng trạng liền giảm nhẹ.