Điều 01 (C1)
IV/ Chứng hỗn hợp là gì ?
Đồng thời với bệnh mới (tân cảm) luôn luôn xen lẫn các bệnh cũ, vấn đề có nghĩa là hai bệnh. Bệnh cũ có hàn có nhiệt, có hư có thực, chính là chứng hỗn hợp. Khi chúng ta lâm sàng biện chứng, làm thế nào để giải quyết những vấn đề này? Trước tiên cần nắm được vấn đề quan hệ của chính và tà (bệnh và năng lực kháng bệnh), biện hư thực trong biện chứng bát cương là để xem xét tiến thoái của chính tà. Thí dụ như, thương hàn, mạch kết đại, tâm động hồi hộp, dùng thang Chích Cam thảo, bệnh này tuy đến khám chữa bệnh vì thương hàn, nhưng còn hỗn hợp với tạng tâm hư suy dẫn đến mạch kết đại, hồi hộp. Thày thuốc khi biện chứng cần cân nhắc tình huống của hai phương diện chính tà, cuối cùng thì thương hàn có phải là vấn đề thứ nhất? Hay chứng tâm động hồi hộp, mạch kết đại mới là vấn đề thứ nhất? trước tiên phải giải quyết vấn đề nào cho thích hợp? Dùng thang Chích Cam thảo phù trì chính khí là chủ, vì tạng tâm là đại chủ (ông chủ) của ngũ tạng, phải tích cực phù trì chính khí là trị liệu ưu tiên hàng đầu trong trường hợp này.
Lại như, bên ngoài có phong hàn phạm biểu toàn thân đau nhức, bên trong dương khí suy hư đi cầu trong lỏng, đã có biểu chứng lại có thêm lý chứng. Thày thuốc khi biện chứng cũng cần cân nhắc trước tiên là phát hãn trị toàn thân đau nhức? Hay ôn bổ để trị chứng đi cầu trong lỏng? Chính vi bản, tà vi tiêu (Chính là gốc, tà là ngọn) tiêu bản không đúng, thì tà khí không thể tuân theo. Đi cầu trong lỏng phản ảnh thận dương và tỳ dương đã hư suy, nếu như còn phát hãn không những tà không giảm, mà sẽ xuất hiện tay chân quyết nghịch là một loạt hội chứng dương hư hàn thịnh. Trường hợp thương hàn chen lẫn thực chứng cũng rất nhiều, như thương hàn biểu không giải, tâm hạ có thuỷ khí; Thái dương dương minh, chính là tỳ bị bó buộc. Chứng hỗn hợp của thương hàn còn có các loại hình như xen lẫn hàn, xen lẫn nhiệt, xen lẫn khí, xen lẫn huyết.
VI/Trị pháp và Phương dược của {Thương hàn luận}
Trước khi có {Thương hàn luận} rất ít sách y học ghi lại các bài thuốc, như {Nội kinh} chủ yếu dùng châm cứu để trị liệu, chỉ có khoảng 13 phương thang được ghi chép trong {Nội kinh}, đối với ứng dụng lâm sàng thì càng rất ít. Điểm quý giá của {Thương hàn luận} chính là ghi lại 113 phương thang, những phương này dùng tổng cộng 91 vị thuốc, so với {Nội kinh} thì đây chính là đại đại.. phát triển. 113 phương này bao quát những nội dung trị liệu gì? Chúng tôi tóm tắt được 8 phương diện. Thứ nhất là hãn pháp (phương pháp gây xuất mồ hôi), bệnh tại biểu, dùng phép phát hãn để giải biểu, dùng các phương Ma hoàng thang, Quế chi thang để giải quyết Thái dương biểu chứng. Thứ hai là phép thổ (gây ẩu thổ), bệnh ở trên, cho nên vượt qua, dùng Qua đế tán để giải quyết thực chứng ở hung cách (ngực, hoành cách mô). Thứ ba là phép hạ (phép công hạ, gây tiết tả), dùng Đại, Tiểu thừa khí thang để giải quyết thực chứng của vị tràng (dạ dày và ruột). Thứ tư là phép hoà giải, dùng Sài hồ thang tễ để trị liệu chứng Thiếu dương bán biểu bán lý. Thứ năm là pháp ôn (làm cho ấm áp), dùng Tứ nghịch bối trị liệu chứng tam âm hư hàn. Thứ sáu là thanh pháp (giảm nóng), dùng Hoàng cầm, Hoàng liên trị chứng nóng ở trong. Thứ bảy là phép bổ (bồi bổ), dùng Nhân sâm, Cam thảo…để điều trị chính khí suy hư. Thứ tám là phép tiêu, dùng Manh trùng, Thuỷ điệt để tiêu trừ ứ huyết. Phần trên chính là hiện nay chúng ta gọi là bát pháp, là được thành lập sau khi có 113 phương trong {Thương hàn luận}
Tại sao gọi là bát pháp? Bát pháp không chỉ là 8 loại phương cách trị liệu.
Pháp chính là có lý luận, có yêu cầu, gọi là phép tắc và không thể bỏ qua. Thí dụ, phép hãn (phép gây xuất mồ hôi) có phép tắc của phép hãn, Quế chi thang, Ma hoàng thang, Đại thanh long thang tuy cùng là phương thang phát hãn, nhưng không giống nhau. Khi uống thang Quế chi để phát hãn nhất định cần 1 thăng cháo nóng, trùm người cho nóng, rồi uống cháo nóng, nếu không sẽ không đổ mồ hôi. Tại sao như vậy? Trong thang Quế chi có vị Thược dược, không như tác dụng phát hãn của thang Ma hoàng, được cung cấp các điều kiện phát hãn nhất định. Ở thời điểm xuất hãn, là loại mồ hôi gì? mồ hôi nhẹ nhàng toàn thân, chỉ nên có một chút mồ hôi sẽ tốt hơn, không nên xuất mồ hôi như nước chảy, như vậy không trừ được bệnh, đó chính là phương pháp. Sau khi uống thang Ma hoàng không ăn cháo loãng, nhưng cũng nên trùm mền, xuất một chút mồ hôi để giải bệnh. Uống thang Thanh long thì không như vậy, vì lượng Ma hoàng nhiều gấp bội so với thang Ma hoàng, sau khi phát hãn, nếu quá nhiều mồ hôi, dùng phấn ấm, chính là khi mồ hôi ra nhiều không khống chế được, nhanh chóng dùng bột gạo xoa lên cơ thể, để lấp vào lỗ chân lông.
Thuốc là ngọn, chính khí của cơ thể là gốc. Thuốc tác dụng vào cơ thể, cả hai hợp nhau có khả năng khởi phát tác dụng trừ khứ bệnh. Chúng ta không thể nói thang Quế chi sẽ trừ hết phong, thang Ma hoàng sẽ trừ hết lạnh, đó chính là chỉ thấy thuốc mà không thấy người, và đó là đạo lý, vì vậy nếu phát hãn quá nhiều, sẽ gây tổn thương năng lực đề kháng bệnh của cơ thể, không thể hoàn toàn loại bỏ bệnh, bệnh tật sẽ không giải, phép công hạ cũng như vậy. Trương Trọng Cảnh Tiên sinh đối với ứng dụng phép công hạ khiến mọi người vô cùng khen ngợi. Bệnh tật mười phần phức tạp có lúc giống như Đại thừa khí thang chứng, lại có lúc giống Tiểu thừa khí thang chứng, rất khó khăn nan giải. Phải làm như thế nào? Trương Trọng Cảnh đầu tiên dùng thang Tiểu Thừa khí, nếu như sau khi uống, bụng chuyển thải ra mùi phân, là có phân cứng trong bụng, có thể dùng thang Đại thừa khí để công hạ, còn nếu không chuyển mùi phân, là biểu hiện không có phân khô, nhanh chóng sử dụng các trị pháp khác. Bắt đầu không dùng thang Đại thừa khí, vì khi dùng phương pháp hạ mạnh, dễ tổn thương chính khí của cơ thể.
Khi sử dụng một phương pháp trị bệnh, nhất là các phép như hãn, thổ và hạ pháp, nên phân tích hai mặt của vấn đề. Thang Ma hoàng là phép phát hãn, tiếp theo sẽ nói, các chứng lở loét họng, chảy máu, mồ hôi lạnh là những tình huống cấm dùng Ma hoàng. Thang Quế chi tư âm hoà dương, điều hoà vinh vệ, điều hoà khí huyết, điều hoà tỳ vị, chính là phương thang hàng đầu của {Thương hàn luận}, đứng đầu các phương, cũng có chứng cấm kỵ, người uống rượu, không thể uống thang Quế chi, nếu uống sẽ gây ẩu thổ, vì người uống rượu không thích vị ngọt; Người mạch phù khẩn, sốt không xuất mồ hôi, cũng không nên uống thang Quế chi, và điều quan trọng là phải biết điều này, đừng phạm sai lầm, không chỉ để nói mặt tốt, mà còn nhấn mạnh mặt xấu. Lý luận của bát pháp bắt nguồn từ phép biện chứng. Nguyên nhân vì đầu tiên có hội chứng, như hội chứng Thái dương, hội chứng trúng phong, phải có phương pháp tương ứng để hướng dẫn ứng dụng phương dược. Lý pháp phương dược của {Thương hàn luận} chính là một khâu móc vào một khâu. Tư tưởng và phương pháp này có ý nghĩa chỉ đạo đối với lâm sàng, vì là ứng dụng của phép biện chứng, đều là nhất phân vi nhị (hai mặt đối lập).
Chúng ta học {Thương hàn luận} không chỉ là học các phương dược như thang Quế chi, thang Ma hoàng, quan trọng hơn chính là học phương pháp nhận thức sự vật, như vậy có thể nâng khả năng lên một cao độ mới.
Pháp truyền theo phương, phương theo phép lập ra, đó cũng là quan hệ của biện chứng. Phương dược của {Thương hàn luận} gọi là “Kinh phương”, hiệu quả rất tốt thể hiện được lý pháp, xác thực là không dễ dàng, với hơn 110 phương thang, khoảng 90 vị thuốc chính là trải qua rất nhiều thực tiễn, sàng lọc, tuyển chọn, cân nhắc, đắn đo, trải qua thí nghiệm lâm sàng hàng vạn ức người mà khẳng định được. Vì thế, những phương thang đều không phải do một mình Trương Trọng Cảnh viết ra mà là kế thừa từ tiền nhân, như Quế chi gia Thược dược Sinh khương đều 1 lạng Nhân sâm 3 lạng tân gia thang, khả năng là Trương Trọng Cảnh trên cơ sở thang Quế chi gia vị mà thành, mà ảo diệu là ở hai chữ tân gia. “汗后身疼脉反沉,新加方法轶医林,方中姜还增一,三两人 参意蕴深。
Hãn hậu thân đông mạch phản trầm
Tân gia phương pháp dật y lâm
Phương trung Khương Thược hoàn tăng nhất
Tam lạng Nhân sâm ý uẩn thâm.
Thời đại của y gia Trương Trọng Cảnh đến nay đã hơn 1700 năm, nhiều kinh phương như Quế chi thang, thang Ma hoàng, thang Tiểu kiến trung, thang Tứ nghịch, thang Đại Tiểu sài hồ được y gia các thời đại ứng dụng nhiều lần. Thông qua kiểm nghiệm thực tiễn, chúng ta phát hiện những phương thang này có hiệu quả, thậm chí vượt ra ngoài dự đoán. Phương thang trong {Thương hàn luận} tuy ít nhưng tinh tuý, từ 3 đến 5 vị là nhiều nhất, ít nhất chỉ có 1 vị như thang Cam thảo, nhiều nhất là 7 vị như thang Tiểu sài hồ. Điều này khác với lâm sàng dụng dược càng nhiều càng tốt của y học lâm sàng hiện đại. Người viết trước khi học {Thương hàn luận} đối với hiệu quả trị liệu của kinh phương cũng có thái độ hoài nghi, sau đó trải qua lâm sàng thực tiễn lâu dài đã phải tâm phục khẩu phục. Người viết công tác tại nhân dân y viện huyện Xương Lê khám một bệnh nhân, ở đùi của bệnh phần trên cùng mọc lên một khối to như quả trứng, sau khi khối đó xuất hiện thì chân bệnh nhân không duỗi thẳng được. Thày thuốc đã đâm xuyên vào nhưng không thấy xuất ra bất cứ vật gì, sau đó người viết khám cho bn vừa nêu, bn mạch huyền, chân không duỗi thẳng được, Thược Cam tứ lạng các tương quân, lưỡng cước câu loan bệnh tại cân, chính là Thược dược Cam thảo thang chứng, liền cho uống thang này, rất nhanh chóng khỏi bệnh. Lý do là gì? Thược dược Cam thảo thang chứng trong {Thương hàn luận} chính là do gân co rút thành chứng sán (tổ chức, nội tạng phình to), hình thành cân sán, dùng Thược dược Cam thảo thang cam toan hoá âm, có khả năng hoãn giải co thắt, thông sướng huyết mạch, tự nhiên thu được hiệu quả tốt.
Tinh thần biện chứng luận trị của {Thương hàn luận}
Hiện nay Trung Tây y kết hợp điều trị chứng viêm phúc mạc cấp tính có sử dụng một số phương dược, trên thực tế là thang Đại sài hồ, Đào hạch thừa khí thêm một ít thay đổi mà thành, thu được thành tựu rất lớn, những bệnh nhân từ đầu rất cần thủ thuật (giải phẫu), sau khi uống thuốc tình trạng đã tốt và không cần thủ thuật.
Trong {Thương hàn luận} bao quát không chỉ là bát pháp, mà còn cả trấn nghịch pháp. Thu sáp pháp v.v…Đó là những phát triển môn phương tễ học của hậu thế, cung cấp các điều kiện đột phá của một phương diện nào đó cho các y gia đời sau. Thí dụ như Lý Đông Viên khi lý luận thang Bổ trung ích khí trong Tỳ vị luận, đã bắt đầu từ thang Tiểu kiến trung, cho thấy ông ta đã xây dựng thang Bổ trung trên cơ sở thang Tiểu kiến trung. Vì sao Trương Trọng Cảnh sử dụng thuốc ngọt? Tất cả đường đều được sử dụng, chính là ấn chứng lý thuyết “Lao giả ôn chi” (Lao nhọc sử dụng thuốc ấm áp). Lý Đông Viên căn cứ theo mà sáng lập phép Cam ôn trừ đại nhiệt, ứng dụng vào chứng tỳ vị hư suy.
Liên quan đến vấn đề biện chứng luận trị, Tôi đã giới thiệu vấn đề này ở phần trước, tại sao chúng ta phải nói về nó ở cuối? Một là để tóm tắt và hai là để mọi người chú ý hơn. Tuy nhiên biện chứng luận trị không bắt đầu từ {Thương hàn luận}, Trương Trọng Cảnh trong lời nói đầu đề cập đến sách tham khảo 《Bình mạch biện chứng》 có khả năng là sách chuyên về biện chứng, nhưng {Thương hàn luận} thực hiện được biện chứng luận trị một cách toàn diện và tinh tế.
Trong 《Nội kinh》 có một lượng lớn tài liệu giảng về tư tưởng phép biện chứng. Để hiểu biết bệnh, cần phải thiết lập tư tưởng phép biện chứng, tư tưởng này chính là vận động, toàn diện, biến hoá, không cô lập, tĩnh chỉ (không cách li, bất động). 《Nội kinh》trị bệnh là trị tận gốc, gốc ở âm dương, đó chính là một loại tư tưởng của phép biện chứng.
Tinh thần biện chứng luận trị của {Thương hàn luận} 《Tố vấn ▪ Phương thịnh suy luận》 đề xướng thày thuốc khi chẩn bệnh cần phải biết xấu biết tốt, biết bệnh biết không bệnh, biết cao biết thấp, biết trái biết phải, bao hàm được những nét mộc mạc của tư tưởng phép biện chứng. Trương Trọng Cảnh kế thừa tư tưởng biện chứng của 《Nội kinh》với âm dương là cương lĩnh để trình bày và phân tích những biến hóa sinh bệnh lý, đối với quan hệ chính tà, quan hệ biểu lý, quan hệ hàn nhiệt, đều chính là phép nhị phân, không xem xét trong cô lập tĩnh chỉ (cách li bất động). Không chỉ như vậy, vinh bị bệnh cần phải biết bệnh ở vệ, bệnh ở vệ cần phải biết bệnh ở vinh, bệnh ở khí cần phải biết bệnh ở huyết, huyết bị bệnh cần phải biết bệnh ở khí, tạng bị bệnh cần phải biết bệnh ở phủ, phủ bị bệnh cần biết bệnh ở tạng, hàn bệnh cần phải biết nhiệt bệnh, nhiệt bệnh cần phải biết hàn bệnh, đều chính là biến hoá, là vận động, là một phân thành hai, bản chất thật của sự vật là như vậy, nếu như không sử dụng tư tưởng này để nhận thức và phân tích vấn đề, các thày thuốc sẽ không có quy tắc nào để chẩn đoán và điều trị. Hiện tại chúng ta nhấn mạnh biện chứng của Trung y, không nói rằng phải nắm vững phương pháp tứ chẩn Vọng, Văn, Vấn, Thiết, thu thập một số tài liệu khách quan để phân tích gọi là biện chứng, còn phải có một khái niệm âm dương, một tư tưởng phép biện chứng đơn giản, vì trong sách {Tố vấn – Phương thịnh suy luận} viết: :“知上不知下,知先不知后,故治不久”(Tri thượng bất tri hạ, tri tiên bất tri hậu, cố trị bất cửu) Biết trên không biết dưới, biết trước không biết sau, vì vậy việc chữa bệnh không thể kéo dài. Y học hiện đại tiến bộ phi thường, thông qua X quang có thể thấy âm ảnh của phổi, lấy máu ở vành tai hoá nghiệm biết được nhiều loại bệnh. Trung y không có X quang, cũng không hoá nghiệm máu, vậy dựa vào đâu để biết bệnh Chính là tư tưởng phép biện chứng. Nó thông qua phản ảnh khách quan của bệnh, xem bên ngoài mà biết bên trong, xem bên trên mà biết bên dưới, quan sát khí mà biết về huyết, một chuỗi tư duy lô gich, sẽ giải quyết được vấn đề. Khi người viết ở huyện Xương Lê, hoả hoạn do cháy Nitrat và có khói khi bị cháy. Nhiều người đang chiến đấu với mùi lửa này, ai hít phải khói đều bị trúng độc, lãnh đạo địa phương nhanh chóng tổ chức nhân viên y tế giải cứu. Người viết cũng tham gia đội ngũ y tế. Một người bị trúng độc nghiêm trọng, tình trạng khó thở tệ hại, đau ngực, nhiều đàm, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch huyền, người viết dùng thang Tiểu sài hồ gia thang Tiểu hãm hung, Sài Hãm hợp phương, sau khi uống hiệu quả vô cùng kiến hiệu.
Đương nhiên, biện chứng luận trị cũng có những thiếu sót nhất định, nhiều lý thuyết còn khá thô thiển, và mức độ kết hợp với những thành tựu khoa học còn rất thấp, chúng ta nên chú ý cải thiện những thiếu sót nêu trên. Tư tưởng biện chứng luận trị của Trung y được xây dựng trên vật chất. Đối với cơ thể con người mà nói, chính là phản ảnh sinh bệnh lý của tạng phủ kinh lạc, vì thế biện chứng luận trị không thể tách rời biến hoá vật chất của tạng phủ kinh lạc. Tôi không đồng ý bỏ qua sáu nhóm hội chứng ngoài các tạng phủ kinh lạc, do đó không có cơ sở vật chất và biện chứng không có sức sống,cũng có thể nói rằng nó không thể phản ánh khách quan. Thí dụ như, nói về kinh mạch, đầu gáy cứng đau là Thái dương kinh bị bệnh; Sắc mặt đỏ ửng, đau trán, khô mũi, là kinh Dương Minh thụ tà. Ngực cạnh sườn trướng đầy, đắng miệng là kinh Thiếu dương thụ bệnh; Đầy bụng là bệnh tà ở kinh Thái âm, đau họng là bệnh ở Thiếu âm; Đau ở đỉnh đầu, ẩu thổ đàm dãi là kinh Quyết âm thụ bệnh. Đó là quy luật khách quan của kinh chứng. Chúng ta khi ứng dụng biện chứng lục kinh nên căn cứ theo kinh để nhận chứng, vận dụng tài năng căn cứ theo chứng để luận trị.
Phàm khi phát bệnh, không ngoài hai phương diện âm dương. Một phương diện là căn cứ theo kinh để nhận chứng, căn cứ theo chứng để luận trị. Một phương diện khác, là cần phải nhận thức vấn đề của âm dương chuyển hoá. Đương nhiên, những biến hoá chính là phải có điều kiện. Người xưa tổng kết là: Thực làThái dương, hư là Thiếu âm, thực là Dương minh, hư làThái âm, đã xét được năng lực kháng bệnh tà mạnh yếu của chính khí. Nếu như chính khí hư suy, thường thường do dương chuyển âm; Nếu chính khí khôi phục, sẽ do âm xuất dương.
Tinh thần biện chứng luận trị của {Thương hàn luận}
Trương Trọng Cảnh viết trong lời nói đầu của {Thương hàn luận}: :“人原五常,以有五脏,经络府會,阴阳会通,玄冥幽 微, 变化难极”(Nhân nguyên ngũ thường, dĩ hữu ngũ tạng, kinh lạc phủ hội, âm dương hội thông, huyền minh u vi, biến hoá nan cực)Nhân bẩm thụ ngũ thường, mà có ngũ tạng, kinh lạc hài hoà, âm dương thấu suốt, tăm tối tinh vi, biến hoá khó khăn, đó chính nói về biến hoá, là vận động, là bộ máy chuyển hoá của âm dương, những vấn đề này và vận động của vật chất là không thể tách rời. Đồng thời, cấu trúc văn chương của {Thương hàn luận} cũng dựa trên tư tưởng của phép biện chứng.
Thí dụ như, điều trên nói về nhiệt chứng, thực chứng, điều dưới nói về hàn chứng, hư chứng, để độc giả tự mình xem xét so sánh. Lại như, Tiểu sài hồ thang chứng phát bệnh thường bên trên nối với lồng ngực, bên dưới nối với bụng nhỏ, và Đào hạch thừa khí thang chứng của bụng dưới cấp kết nối cùng một chỗ, khi biện chứng nên tránh lầm lẫn. Còn rất nhiều đoạn văn giống như vậy, chính là chỉ cần chú ý là có thể sắp xếp an bài. Vì thế, cá nhân tôi không đồng ý đảo lộn thứ tự của các câu trong {Thương hàn luận}, tuy thuận tiện dễ dàng hơn trong việc học, nhưng mất đi phần nào tư tưởng của phép biện chứng. Ngoài ra, {Thương hàn luận} còn sử dụng tính chất khác nhau của hai chứng trạng để trị liệu phân biệt bệnh, cũng có rất nhiều khả năng dẫn dắt tư tưởng biện chứng pháp của mọi người. Thí dụ, chứng tự lợi (đi tả) mà khát, thuộc Thiếu âm; Tự lợi (đi tả) mà không khát, thuộc Thái âm, đều là tự lợi, nếu khát thì thuộc Thiếu âm, không khát sẽ thuộc Thái âm, điều này sẽ phân biệt hạ tiêu thận dương hư đi tả và trung tiêu tỳ dương hư đi tả. Lại như, bàng quang phủ chứng phân thành súc (tích ứ) huyết và súc(tích ứ) thuỷ, tiểu tiện thuận lợi là chứng súc huyết, tiểu tiện không tiện lợi là súc thuỷ, như vậy để chẩn đoán phân biệt, đã có những cách phân định rõ ràng như vừa nêu, giúp chúng ta tăng cường tính quyết đoán trong biện chứng luận trị.
Thái dương bệnh chứng tính trị thượng
[Khái thuyết]
Hiện tại chúng ta đang nói về Thái dương bệnh thiên thượng—— 《Biện Thái dương mạch chứng và trị liệu phần thượng thứ 5》. Ở bài giảng trước, trước tiên là giới thiệu tổng nội dung để mọi người có nhận thức tổng thể. Thái dương bệnh chính là giai đoạn bắt đầu của bệnh ngoại cảm, vị trí đấu tranh giữa chính và tà (năng lực kháng bệnh và bệnh) ở tại thể biểu. Thể biểu là gì? Đó chính là da lông, thớ thịt, cơ nhục, tất cả những gì vừa kể gọi là biểu. Tà khí khách (khách là tồn tại ngoài ý thức) vào thể biểu, chính khí đề kháng bệnh tà cũng ở thể biểu, vì thế thường gọi là biểu chứng. Chủ quản phạm vi thể biểu là kinh Thái dương. Thái dương có kinh, có phủ của nó. Kinh chính là Túc Thái dương kinh, phủ chính là bàng quang. Đây là một kinh dương đứng đầu các kinh dương, quan hệ biểu lý với Túc thiếu âm thận. Khí Thái dương bảo vệ bên ngoài nên vững chắc kiên cố, vì thế khi bệnh tà khách vào thể biểu trước tiên là gây tổn thương cho kinh Thái dương.
Ngoài ra, nói như khí của Thái dương là phủ khí của bàng quang, có tác dụng khí hoá tân dịch, vì bàng quang được ví như quan Châu đô, có nhiệm vụ trữ tàng tân dịch. Kinh và phủ có liên hệ hỗ tương, hỗ tương cấu thông (khai thông, nối liền). Sinh lý của Thái dương phân thành kinh và phủ, vì thế khi phát bệnh có hai loại tình huống, một gọi là kinh chứng, một gọi là phủ chứng.
Kinh chứng chính là bệnh tà ở thể biểu phát sinh một số bệnh biến; Phủ chứng chính là bệnh tà ở Thái dương không giải, theo kinh nhập vào phủ (phế?), khiến bàng quang khí hoá không thuận lợi mà phát sinh bệnh biến. Kinh chứng là Thái dương biểu chứng (chứng bên ngoài), phủ chứng là Thái dương lý chứng (chứng bên trong); Kinh, bàng (quang) liên hệ với nhau, vì thế bệnh tà của kinh Thái dương đi vào trong sẽ có khả năng truyền đến phủ của Thái dương.
Nếu dương khí của kinh Thái dương đã hư, bệnh tà có thể truyền vào đến Thiếu âm, vì Thiếu âm và Thái dương có quan hệ biểu lý, hai kinh này hỗ tương chi viện, hỗ tương cấu thông (khai thông, nối liền)
Chính vì hai kinh Thái dương và Thiếu âm có quan hệ, vì thế trong quá trình phát bệnh có hai loại tình huống, một loại tình huống chính là Thái dương và Thiếu âm đồng thời bị bệnh, trường hợp này gọi là lưỡng cảm, đúng là âm dương lưỡng cảm. Âm dương lưỡng cảm ở đây có những điểm khác biệt nhỏ với lưỡng cảm ở Nội kinh. Lưỡng cảm ở Nội kinh đều là nhiệt thịnh, lưỡng cảm của {Thương hàn luận} thường thường là dương khí hư. Loại tình huống thứ hai, Thái dương là phòng tuyến bảo vệ đầu tiên của cơ thể con người, là tầng đề kháng ngoại tà ở ngoài cùng, nếu như Thái dương khí suy, tà khí có thể vượt qua để vào Thiếu âm. Thêm hai chữ phi độ là để nhấn mạnh ý nhanh chóng. Từ Thái dương đến Thiếu âm, ở giữa cách 3 kinh: Dương minh, Thiếu dương và Thái âm, loại phép nhanh này gọi là phi độ, khi lâm sàng cần phải tìm hiểu ngọn nguồn của bệnh, có thiếu âm bệnh bên trong Thái dương kinh. Đó chính là quan hệ giữa Thái dương và Thiếu âm.
Hiện tại chúng ta nói đến thuyết kinh chứng của Thái dương, kinh chứng của Thái dương bệnh chính là,
“Thái dương chi vị bệnh, mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn” (Thái dương bị bệnh, mạch phù, đầu gáy cứng đau mà ghét lạnh ) , đây không chỉ là hội chứng chung của mọi Thái dương biểu chứng, mà còn là cương lĩnh chung của biểu chứng, bao gồm trúng phong, thương hàn, cũng bao gồm biểu chứng tổng cương của các loại ngoại cảm khác. Ở phía dưới tổng cương lại phân thành 2 điều, một là Thái dương trúng phong, hai là Thái dương thương hàn, ngoài hai loại này, lại nói đến một loại nữa là Thái dương ôn bệnh. Thái dương bệnh, phát sốt và khát, không sợ lạnh, là bệnh ôn. Nếu đã phát hãn, thân thể nóng rát, có tên là phong ôn, đề xuất khái niệm phong ôn, bệnh ôn. Thái dương trúng phong dùng thang Quế chi, Thái dương thương hàn dùng thang Ma hoàng. Thái dương thiên thượng chủ yếu giảng về thang Quế chi, thiên trung giảng về thang Ma hoàng, thang Cát căn. Đối với phong ôn, bệnh ôn, đề cập đến hội chứng, nhưng không đưa ra phương pháp trị liệu, từ đó về sau cũng không trình bày thêm về các bệnh này. Vì thế, chứng trúng phong, thương hàn của Thái dương bệnh là nội dung trọng điểm của Thương hàn luận. Ôn bệnh, phong ôn là những loại chứng nói về cách truyền biến, không nói về trị liệu và tiên lượng bệnh. Cho nên với đề xuất loại chứng chính là nhấn mạnh cần phân biệt chẩn đoán bên trong biểu chứng còn có ôn bệnh, còn có phong ôn, là cùng một loại bệnh với trúng phong, thương hàn, nhưng không thể dùng thang Quế chi, thang Ma hoàng. Nếu dùng sai, sẽ phát sinh ngộ trị (điều trị nhầm). Kế cận cũng đề xuất hai vấn đề. Một là chứng tích nước ở khí phận. Tà khí chuyển đến hạ tiêu, ảnh hưởng khí phận, bàng quang khí hoá bất lợi, sẽ xuất hiện tiểu tiện bất lợi, gọi là chứng súc thuỷ (tích, ứ nước), Hai là chứng súc (tích ứ ) huyết ở huyết phận. Tà ở biểu nhập vào trong (lý) hoá nhiệt, nhiệt ứ huyết kết, đây gọi là chứng súc huyết, cũng gọi là chứng nhiệt kết bàng quang. Một số nhà chú thích hậu thế cho rằng, tích trữ nước trong bàng quang là dễ hiểu, tích trữ huyết trong bàng quang là khó hiểu. Xét theo hội chứng, bụng dưới cấp bách, người bệnh như cuồng, huyết tự xuống, huyết hạ xuống thì khỏi bệnh, khi chẩn đoán phân biệt còn đề xuất tiểu tiện thuận lợi, huyết là đạo lý (lý lẽ), đã không phải tại bàng quang, nhiệt và huyết rốt cuộc bị ứ trệ ở đâu? Có rất nhiều ý kiến, đời nhà Thanh có y học gia tên Thư Trì Viễn, ông ta cho rằng súc thuỷ chính là tích ứ ở Túc Thái dương bàng quang, súc huyết chính là tích ứ ở Thủ Thái dương Tiểu trường (Thương hàn tập chú). Ông đưa ra lý do khá đầy đủ, trên lâm sàng bệnh nhân súc huyết còn bài xuất một lượng phân đen như sơn, đồng thời vì Tiểu tràng và tâm là biểu lý, tâm chủ thần chí, cho nên phát cuồng, như cuồng. Ý kiến này có đạo lý nhất định, vì thế có nhiều đại gia đồng thuận với ý kiến của Thư Trì Viễn. Nhưng có điều là vấn đề này vẫn còn nhiều tranh luận. Nhiệt tà nhập khi vào trong cơ thể dễ ngưng kết với những vật chất như nước, máu, đàm, thực phẩm v.v… Ngưng tụ lại biến thành nhân tố gây bệnh, phát sinh một loạt hội chứng. Ngoại trừ kinh chứng, phủ chứng, Thái dương bệnh còn có một số biến hoá. Một biến hoá là Thái dương biểu tà truyền vào lồng ngực. Ngực là thượng khí hải, là nơi của tâm phế, tâm phế là những tạng khí ban bố doanh vệ (bảo vệ và nuôi dưỡng), vì thế khí doanh vệ của Thái dương thụ tà, liền truyền vào lồng ngực. Trương Trọng Cảnh Tiên sinh phân bệnh này thành hai loại: Loại thứ nhất là chứng hư phiền. Tà nhiệt đến lồng ngực, người bệnh liền phát phiền, nhưng chỉ có nóng nhiệt mà không có tính thực chất, vật chất, thì gọi là chứng hư phiền. Gọi là hư chính là nói đến tà nhiệt không kết hợp với thuỷ, đàm, chỉ là tà nhiệt phát triển ngấm ngầm mà thôi, vì thế gọi là chứng hư phiền, đó cũng chí là Chi tử thị thang chứng. Loại thứ hai là chứng kết hung của nhiệt kết hợp với thuỷ, có nhiều nguyên nhân bệnh, có kế phát, có nguyên phát, có ngộ hạ (hạ nhầm). Sau khi tà nhiệt đến lồng ngực, kết hợp hỗ tương với một loại thuỷ dịch, gọi là kết hợp giữa nhiệt và thuỷ. Phạm vi của nó có thể phân thành thượng, trung và hạ, thời điểm đầu tiên đến lồng ngực, vì thế phương chứng chính là Đại hãm hung hoàn chứng; Sau đó chính là ngạnh mãn ở tâm hạ (dưới tâm đầy cứng), hoặc từ tâm hạ đến bụng dưới đầy cứng và đau không thể cận kề, nên dùng thang Đại hãm hung để trị liệu, hai loại phương chứng này gọi là chứng kết hung, rất giống với chứng viêm màng ngực, viêm màng bụng ngực hiện nay. Sau chứng kết hung là giảng đến tâm hạ bĩ, có 5 chứng tâm hạ bĩ (bế tắc ở dưới tim (dạ dày)). Vì sao lại xuất hiện chứng tâm hạ bĩ tắc? Vì sử dụng sai các trị pháp hãn, thổ, hạ, gây tổn thương khí của tỳ vị, ảnh hưởng đến công năng thăng giáng của tỳ vị, sẽ làm cho đàm thuỷ lưu lại, phát sinh bế tắc dưới tâm, có thể sử dụng thang Đại hoàng Hoàng liên tả tâm, thang Phụ tử tả tâm, thang Bán hạ tả tâm, thang Sinh khương tả tâm, thang Cam thảo tả tâm để trị bệnh. Sau đó sẽ giảng về biến chứng. Khi điều trị nhầm (ngộ trị), sẽ phát sinh hư thực, hàn nhiệt, các loại biến hoá của ngũ tạng lục phủ. Các biến chứng này rất nhiều, nội dung trị pháp cũng rất phong phú, bổ sung được những thiếu sót của biện chứng lục kinh. Đối với biến chứng Trương Trọng Cảnh tiên sinh chỉ ra những nguyên tắc cụ thể, như xem xét mạch chứng, biết chỗ sai nghịch, tuỳ theo chứng mà trị; Ngoài ra còn nhắc nhở chúng ta một điều, đó là, phàm bị bệnh, là thổ, là hạ, là phát hãn, mất máu, mất nước, nếu âm dương tự hoà (công năng tự thân điều tiết giữ âm dương thăng bằng) tất bệnh sẽ tự khỏi. Bản chất của bệnh tật là âm dương bất hoà. Vậy phải làm gì để hoà hợp âm dương? Không ngoài hai phương diện sau, một là bồi dưỡng các điều kiện để hoà hợp âm dương, nếu như không thể thì buộc phải dùng thuốc để hỗ trợ.
Trong các phương pháp trị liệu, chủ yếu nói về hãn pháp (phép xuất mồ hôi), nhắm vào chứng của kinh biểu (kinh mạch ở phần ngoài) chính là phép phát hãn, dùng các phương thang như thang Ma hoàng, thang Quế chi, thang Đại thanh long, Tiểu thanh long, thang Cát căn. Đối với phủ chứng, một phép là thông dương hành thuỷ, dùng Ngũ linh tán để trị liệu; Một phép nữa là phá huyết trục ứ, dùng Đào hạch thừa khí thang, Để đương thang, Để đương hoàn là những phương công trục, Đối với hai chứng cảm Thái dương và Thiếu âm, dùng phép ôn kinh giải biểu; Đã hình thành chứng Thiếu âm hư hàn, sẽ dùng phép cấp ôn (làm ấm nhanh), với thang Tứ nghịch để trị liệu. Đến như ngộ trị mà phát sinh các loại biến chứng, hoại chứng, trị pháp có thể dùng hoặc ôn, hoặc thanh, hoặc tiêu, hoặc bổ hoặc tả căn cứ theo tình huống cụ thể mà lập pháp.
{Thương hàn luận} tổng cộng có 10 quyển 22 thiên, chúng ta cần học gì tiếp theo, biện bệnh mạch chứng biện trị pháp kinh Thái dương phần thượng thứ 5. Biện chính là quy nạp tổng hợp, trình bày sự khác biệt và phân tích. Cần phân biệt rõ Thái dương bệnh, cần thông qua mạch và chứng. Địa vị của Mạch có một vị trí trọng yếu trong Trung y biện chứng, không thể coi thường; Chứng là hội chứng của một bệnh, mỗi bệnh đều có hội chứng khách quan của nó. Có được mạch và chứng là có thể thiết lập nguyên tắc và phương pháp trị liệu tương ứng. Chúng ta sẽ học tập nguyên văn ở phần sau.
01 太阳之为病,脉浮, 头项强痛而恶寒。C1
Điều 1/ Thái dương chi vi bệnh, mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn, C1
(Bệnh ở kinh Thái dương, mạch phù, đầu gáy cứng đau mà ghét lạnh)
Điều này là đề cương của Thái dương bệnh, cũng là cương lĩnh tổng quát của biểu bệnh. Kinh Thái dương bị bệnh, xét từ đề pháp (pp nhìn và hiểu về một vấn đề nào đó) đã phản ảnh Trương Trọng Cảnh phân chứng lục kinh chính là căn cứ vào tạng phủ kinh lạc, không chỉ vỏn vẹn là một tên bệnh. Có Thái dương rồi mới có “Thái dương chi vi bệnh” Vì thế, trước tiên nên giải thích Thái dương là gì?, cái gì gọi là Thái dương bệnh, cái gì là mạch chứng của Thái dương, đặc điểm mạch chứng phản ảnh cái gì.
Thái dương, chính là kinh Thái dương, túc thái dương bàng quang kinh. Túc thái dương bàng quang kinh và Túc Thái dương bàng quang phủ nối liền với nhau, phủ Thái dương ở hạ tiêu, nhưng khí của nó thông qua kinh Thái dương đi ra ngoài ở thể biểu, làm ấm áp da thịt, kháng ngự ngoại tà, bảo vệ thể biểu (phần bên ngoài của cơ thể). Vì công năng sinh lý như vậy, do đó được gọi là vệ khí (khí bảo vệ). Không cần tách rời vệ khí và khí của Thái dương. Vệ khí chính là khái niệm đặc sắc của Trung y, y gia cổ đại rất trọng thị đối với doanh khí, vệ khí.
Vệ khí vận hành trên cơ thể có một quy luật, ngày và đêm đều cùng một chỗ, vệ khí vận hành trên cơ thể 50 vòng, tức là 50 vòng tròn. Trong 50 vòng này, vệ khí ban ngày đi vào dương 25 vòng, ban đêm đi vào âm 25 vòng, sau đó là trời sáng, “Bình nhật” (thường ngày) trời rạng sáng, con người thức giấc, hai mắt mở ra, vì thế nên nói rằng, mở mắt ra là dương, nhắm mắt lại là âm. Dương khí hoạt động, vệ khí đi lên đỉnh đầu, theo gáy xuống thái dương, chính là khí ở thời điểm này giao nhau ở kinh Thái dương. Thời điểm này từ âm chuyển sang dương, vệ khí đi ở dương đạo, sẽ bắt đầu từ Túc Thái dương. Nội dung này đều có trong 《Nội kinh》 và 《Nan kinh》mọi người có thể xem lại. Tại sao lại nói về kinh mạch nội tạng? Tại sao lại nói về khí huyết và dịch của cơ thể? Đó chính là sự vận động sinh lý của một số vật chất trên cơ thể, bỏ qua những điều này thì không còn Trung y. Khí Thái dương chính là Vệ khí. Khí của Thái dương đứng đầu lục kinh quản lý doanh vệ, ấm áp cơ nhục, thớ thịt, chủ đóng mở, bảo vệ vững chắc bên ngoài, trên thực tế không thể tách rời khí của Vệ dương.
Vì khí của Thái dương có những tác dụng trọng yếu như vậy, vì thế gọi là Cự dương hoặc Thái dương, thái là to lớn, Thái dương là một dương khí to lớn. Dương khí của thể biểu toàn thân đều chịu sự quản lý của khí Thái dương.
Liên quan đến vấn đề Thái dương chủ biểu. 《Linh khu ▪Doanh Vệ sinh hội》 viết: “太阴主内,太阳主外。”(Thái dương chủ ngoại, Thái âm chủ nội) Thái âm làm chủ bên trong, Thái dương làm chủ bên ngoài, bên ngoài là biểu. 《Linh khu kinh ▪ Bản tạng》 viết: Thận hợp tam tiêu, bàng quang. Tam tiêu, bàng quang đáp ứng từ chân tơ kẽ tóc. Thận là căn bản của âm dương, vì thế bệnh là do âm dương bất hoà, cuối cùng tất sẽ ảnh hưởng đến thận. Thận hợp với Tam tiêu, lại hợp với bàng quang. Bàng quang gọi là Thuỷ phủ, ;“三焦者,水谷之道路,气之所终始也”(Tam tiêu giả, thuỷ cốc chi đạo lộ, khí chi sở chung thuỷ dã) Tam tiêu là đường giao thông của thuỷ cốc, là nơi bắt đầu và cuối cùng của khí, Tam tiêu lại được gọi là đường giao thông của Thuỷ.
Khí tam tiêu làm ấm áp da thịt, vì thế dương khí của thận thông qua tam tiêu và bàng quang mà ứng với mọi nơi thấu lý (thớ thịt) nhỏ nhất trên cơ thể, lại nói dương khí toàn cơ thể chính là khí của thận dương thu phát thông qua bàng quang và Tam tiêu. Ứng chính là ngoại ứng, ngoại ứng vào khe thớ thịt nhỏ nhất, có ý là khí và thuỷ gốc trong mà ứng ra ngoài. Vì bàng quang, tam tiêu đều có tân dịch, cho nên nói khí đến mọi nơi mọi chỗ thì không thể đơn thuần là khí mà bên trong còn có nước, Ngoại cảm phong hàn một khi làm cho dương khí bế tắc, có nghĩa là thuỷ dịch trong tấu lý hào mao (thớ thịt nhỏ nhất) cũng bị bế tắc dừng lại, vì thế cần phát hãn để trừ phong hàn. Một y học gia Nhật bản cho rằng thang Ma hoàng có tác dụng phát hãn chính là giải thuỷ độc.
Con người là một chỉnh thể, công năng tạng phủ chính là hỗ tương hiệp trợ. Linh khu Bản thâu viết: Thiếu dương thuộc thận, thận nối lên trên với phế, nên nuôi hai tạng, cũng chính là thận đi lên thuộc về phế, hợp bàng quang, trên dưới nối liền, thông nhau ở tam tiêu, nên nuôi hai tạng, vì thế nên nói Thái dương chủ biểu và Thiếu âm dương khí chi viện chính là không thể tách rời. Vì sao Thái dương cần biểu lý với Thiếu âm? Không đạt đến âm dương biểu lý, Thái dương chủ biểu sẽ rất khó khăn, nó không có lực lượng lớn mạnh, chỉ dựa vào Thiếu âm thận khí, là khí nguyên dương tiên thiên, giống như một dạng khí Đại dương.
Ngoài ra, chúng ta xem lại những vấn đề liên quan đến khí trong 《Linh khu ▪ Quyết khí》.
Khí là gì? Thượng tiêu rộng mở, khơi dòng vị ngũ cốc, nuôi dưỡng da thịt thân thể lông tóc, nếu như sương mưa móc thì gọi là khí, chúng ta đã giới thiệu qua, khí Thái dương cần thông qua tam tiêu, được chi viện từ tạng thận, có khả năng làm chủ thể biểu. Nhưng nếu chỉ có thận khí tiên thiên, không có khí hậu thiên thuỷ cốc, khí của hô hấp cũng chính là không được. 《Linh khu kinh▪ Quyết khí》 chỉ xuất: Thượng tiêu mở ra, khai thông vị ngũ cốc, con người chỉ hô hấp dương khí của trời, dương khí của trời và thuỷ cốc kết hợp ở cùng một nơi, biến thành năng lượng, nuôi dưỡng thân thể, da thịt lông tóc, nếu tưới tắm như sương, gọi là khí. Vì thế , Thái dương làm cho da thịt ấm áp, khiến thấu lý tốt tươi (thấu lý= giữa thớ thịt và da), coi về đóng mở, dương khí kiên cố bảo vệ bên ngoài, đã bao hàm tiên thiên thận khí, cũng bao gồm khí của thuỷ cốc, khí của hô hấp.
Dựa theo lý thuyết ở phần trên, có thiên khí là có khí hô hấp, có địa khí là có khí của thuỷ cốc, có nhân khí là khí tiên thiên bẩm phú ở thận khí, đó là ba khí Thiên, địa, nhân hợp lại có tác dụng hiệp đồng. Vì thế, nếu không có Phế tuyên phát (tuyên phát=Dọn đường phát tán), vị tư dưỡng (bồi dưỡng) thì Thái dương không có nguồn gốc và không thể tiếp tục, sẽ không thể phát huy tác dụng. Vì sao trong biểu chứng của Thái dương bệnh lại có suyễn? Vì trong khí Thái dương có bao gồm phế khí, tà khí ảnh hưởng đến công năng tuyên giáng của phế khí, dẫn đến Phế khí không thuận lợi. Vì sao trong Thái dương bệnh lại có oẹ khan, ẩu nghịch? Vì trong khí Thái dương có vị khí, tà khí ảnh hưởng đến công năng thông giáng của vị khí, làm cho vị khí không thuận lợi. Vì sao trong Thái dương bệnh lại phát sốt mà mạch lại trầm? Vì khí Thái dương có hàm chứa thiếu âm thận khí. Như vậy, chúng cần có một quan niệm chỉnh thể, cơ thể trên phương diện công năng sinh lý chính là có liên hệ. Thái dương chủ biểu và Phế chủ bì mao (da lông), tam tiêu làm ấm da thịt tất cả đều như nhau, đừng xem chúng là riêng biệt và không tương quan.
Chúng ta lại nói về vấn đề kinh Thái dương. Căn cứ lý luận Trung y, kinh lạc trên cơ thể là tồn tại khách quan, các nhà châm cứu chính là theo kinh để tìm huyệt, châm vào những huyệt này để trị bệnh của kinh mang huyệt đó. Người viết trước đây ở nông trường Hán Cổ (47 phân tràng) triển khai giáo dục cách mạng, ngày ngày đến các gia đình bần hạ trung nông để khám bệnh, có một bé gái họ Trần 14 tuổi, sốt cao. Người viết thời điểm đó không mang theo thuốc, đã phỏng theo phương pháp Thương hàn, châm các huyệt Phong trì, Phong phủ, còn có thêm Đại chuy, Khúc trì. Đúng là ngoài cả ngoài ý liệu của người viết, sau khi châm xong Não môn xuất hãn, và bn hạ sốt. Làm sao có thể nói Thái dương chủ biểu với kinh không có quan hệ? Theo Trương Trọng Cảnh châm huyệt Đại chuy ở khe thứ nhất, Phế du, Can du, Kỳ môn đều là có đạo lý, chính là nói về tạng phủ kinh lạc. Kinh Thái dương là kinh dương đứng đầu các kinh dương, Thiếu dương và Dương minh đều không bằng. Vì kinh Thái dương đi theo dương đạo, phía trước của cơ thể là âm, phía sau là dương, mà kinh Thái dương đi ở sau lưng. Túc thái dương bàng quang bắt đầu từ trong khoé mắt, đi lên trán, giao nhau ở đỉnh đầu, từ đỉnh đầu đi vào não, đi ra phía dưới gáy, đi ra phía trong vai, theo lưng xuống eo, vào xương sống, nối thận thuộc bàng quang. Không chỉ xuống sau lưng, mà còn là một kinh dài nhất, huyệt đạo cũng nhiều nhất. Ngoài ra, kinh Thái dương và Đốc mạch đi song song, Đốc mạch là tổng chỉ huy của các kinh dương. Vì thế, chỉ có kinh Thái dương đảm nhiệm thông hành dương khí, có tác dụng chủ biểu. Đồng thời, bàng quang lại chính là thuỷ của phổi, thuỷ có thể hoá khí, khí có thể hành thuỷ, do đó có nhiểu khả năng chủ biểu. Kinh Thái dương có phải là một kinh có nhiều vấn đề? Hiện nay có một số người căn cứ học thuyết kinh lạc trong Thương hàn luận kiên trì đưa ra ý kiến phản đối, họ nói rằng: Làm thế nào điều này có thể đúng? Thái dương bệnh là bệnh ở một dòng sao? Trên thực tế, tuyến đó là xương sống của nó, giống như đường trục của tuyến đường chính. Đường lớn là kinh, đường nhỏ là lạc, trong lạc còn có tôn lạc, như mạng lưới trên toàn thân! Vì thế, Thái dương phân ra làm 3, gọi là Thái dương thể, Thái dương kinh và Thái dương phủ. Thái dương thể chính là Thái dương chủ biểu, bề mặt đều là Thái dương; Thái dương kinh chính là nói về kinh mạch, đầu gáy cứng đau chính là kinh mạch không thuận lợi, Thái dương phủ chính là vấn đề công năng khí hoá của bàng quang, Thái dương thể, Thái dương kinh, Thái dương phủ, tóm lại gọi chung là Thái dương. Từ những giải thích của các nhà chú giải, có lúc đề cập đến Thái dương phủ, có lúc là Thái dương kinh, trên thực tế đó là một thể hoàn chỉnh. Y tôn kim giám để cho Thương hàn luận dễ hiểu hơn, đề xuất các khái niệm như thể của Thái dương, kinh của Thái dương, phủ của Thái dương. Chính vì có phủ của Thái dương nên kinh tà (tà khí ở kinh) có thể truyền đến phủ, vì kinh phủ tương liên (liên quan với nhau), như gốc và cành, chính là một chỉnh thể.
Vì Thái dương chủ biểu, nên khi tà khí bên ngoài khách vào thể biểu đều bắt đầu từ Thái dương. Chính khí đề kháng tà khí ở thể biểu, nên vị trí bệnh tại thể biểu. Chứng trạng thứ nhất của biểu chứng chính là mạch phù. Sự sắp đặt các chứng trạng: Đầu gáy cứng đau, sợ lạnh, mạch phù, mạch phù được xếp ở vị trí thứ nhất, cho thấy tính chất quan trọng của nó. Mạch phù là gì? Vì chính khí kháng bệnh tà ở biểu, doanh vệ khí huyết đều hướng ra ngoài vì thế nên mạch phù. Chữ Phù có nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, là nói theo hình tượng mạch. Mạch phù như cây gỗ nổi trên mặt nước, mạch phù chỉ ở trên thịt. Thứ hai, nói theo bệnh lý. Mạch phù là gì? Phản ảnh ở đây là Thái dương biểu chứng. Do tà khí mới khách vào thể biểu, chính khí bắt đầu đề kháng, khí huyết hướng ra ngoài, vì thế mạch phù. Cũng chính như chúng ta thường nhấn mạnh : Có một chút mạch phù là có một chút biểu chứng! Vô luận thời gian bệnh dài bao lâu, chỉ cần còn mạch phù, là phản ảnh của khí huyết đang hướng ra ngoài, cũng là hàm ý tà khí tại biểu chưa được giải, mạch phù là bệnh ở dương biểu, không thể dùng các loại thuốc hạ như thang Thừa khí để hạ được.
Làm sao để phán đoán mạch phù? Phép thiết mạch gồm các phép: Cử, án và tầm. Các lớp của cơ thể từ ngoài vào trong phân thành 5 lớp gồm da, thịt, mạch, gân, xương, gọi là ngũ thể. Đặt nhẹ tay gọi là phép Cử, cũng chính là nhẹ tay (phù) mà thấy mạch, lại ấn tay xuống đến thịt, ấn xuống đến gân, ấn xuống đến xương, gọi chung là cử, án, tầm (nhẹ tay, ấn xuống, tìm). Nên dùng phép cử, vì mạch cần có sự chính xác, viết phù trung trầm (ở trên, ở giữa, ở dưới), là tìm đầy đủ trên dưới, truy tìm trái phải, và cần phải làm đúng theo quy củ.
Chứng thứ hai của biểu chứng chính là chủ chứng. Một là đầu thống hạng cường (đau đầu cứng gáy) là hai hội chứng liên hệ hữu cơ. Đầu là nơi hội tụ của chư dương, chính là các kinh dương đều hội tụ ở đầu, nhưng mỗi kinh lại có hướng riêng của nó, Dương minh ở vùng đầu trán, Thiếu dương ở góc đầu, Thái dương ở đỉnh đầu, đầu là vị trí của 3 kinh dương thông nhau, mà đỉnh đầu là vị trí riêng của Thái dương. Tuy vậy bệnh ở ba kinh dương đều có thể xuất hiện đau đầu, nhưng chứng trạng đau đầu cứng gáy là chứng trạng của riêng kinh Thái dương, đó chính là tính đặc thù. Sao gọi là hạng cường (cứng gáy), chính là kinh mạch Thái dương không thuận lợi. Vì kinh mạch có tác dụng khai thông, vì thế gọi là kinh thâu (vận chuyển).【 Linh khu kinh▪ Bản tạng】 có các câu: 经脉者,所以行血气而营阴阳,濡筋骨,利关节者也。”(Kinh mạch giả, sở dĩ hành huyết khí nhi doanh âm dương, nhu cân cốt, lợi quan tiết giả dã) Kinh mạch sở dĩ hành huyết khí mà quản lý âm dương, thấm tưới lên gân xương, ích lợi cho xương khớp. Kinh mạch chính là lưu thông khí huyết, tưới thấm gân xương ích lợi cho các khớp xương, với lưu thông là thích hợp. Vì Thái dương biểu thụ bệnh tà, tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến kinh của nó. Vì thế nên Thái dương biểu chứng cũng gọi là Thái dương kinh chứng. Kinh Thái dương thụ tà, bộ vị phản ảnh chủ yếu chính là gáy, lại ảnh hưởng xuống lưng eo, kinh Thái dương vận chuyển không thuận lợi, phía sau gáy bị cứng nhẹ, cho dù hoạt động, hay nhìn xem chung quanh, cúi ngửa đầu đều kém tự nhiên, có cảm giác căng cứng. Có chú thích gia cho rằng, cường là cường trực, đó là sai rồi, như vậy đã trở thành bệnh kính.
Thứ hai là, mà sợ lạnh (nhi ố hàn), NHI là một từ liên kết trên dưới (thừa thượng khải hạ= Kế thừa) không chỉ làm cho hội chứng của phần trên liên tiếp ở cùng một nơi , mà còn có ý nhấn mạnh NHI Ố HÀN. Phàm khi do Trương Trọng Cảnh miêu tả, chữ NHI sau một số chứng trạng, như là, bất hãn xuất NHI phiền táo giả(Không xuất mồ hôi mà phiền táo), vô hãn NHI suyễn giả (Không có mồ hôi mà suyễn), đều có ý nghĩa trọng yếu nhất định.
Vì sao mà sợ lạnh? Vì tà khí gây tổn thương khí Thái dương, vệ khí không thể sưởi ấm cơ biểu như bình thường cho nên sợ lạnh.
Đề cương của biểu chứng trong {Thương hàn luận} không đề cập đến phát nhiệt, chỉ đề cập đến sợ lạnh.
Biểu chứng cũng phát nhiệt, vì dương khí bị uất. Khí Thái dương bị tà khí gây tổn thương, dương khí cần đề kháng tà ở biểu, mở đóng không thuận lợi nên dương khí bế uất, mà có hội chứng phát nhiệt. Tại sao đề cương ở câu này của {Thương hàn luận} không đề cập đến phát nhiệt? Tà khí khi đả thương người đầu tiên là đả thương vệ dương, vì thế cảm giác sợ lạnh nhất định sẽ xuất hiện. Nói theo cảm giác chứng trạng, sợ lạnh nhất định sẽ xuất hiện trước khi phát nhiệt. Sau khi biểu dương bị tổn thương, dương khí, doanh vệ, khí huyết trên cơ thể cần tích cực đề kháng ngoại tà ở thể biểu, sau khi phát sinh dương khí bị đè nén, sẽ xuất hiện phát sốt. Nhưng, lâm sàng cũng có chứng trạng sợ lạnh cùng lúc với chứng trạng phát sốt. Ngày xưa không có dụng cụ đo thân nhiệt, chỉ có thể căn cứ theo lời kể của bệnh nhân để ghi lại, vì thế nhấn mạnh sợ lạnh. Do đó, biểu chứng trừ sợ lạnh ra, còn có chứng trạng phát nhiệt. Đó chính là đề cương của Thái dương bệnh, cũng chính là đề cương của biểu chứng. Sau này phàm đề cập đến Thái dương bệnh, bất luận là ở thiên Thái dương, hay ở các thiên, chương khác cũng vậy, nên có đầy đủ chủ mạch, chủ chứng của biểu chứng. Cũng chính là mạch phù, đau đầu, cứng gáy, sợ lạnh, phát sốt.